Chia sẻ:
ADEPTS OF
THE FIVE ELEMENTS
(NGŨ HÀNH
Các Vị Thánh Sư của ngũ đại)
AN OCCULT SURVEY
OF PAST AND FUTURE PROBLEMS
( Khảo sát huyền môn về các vấn đề trong quá khứ và tương lai)
Tác giả (By) DAVID ANRIAS
AUTHOR OF ” THROUGH THE EYES OF THE MASTERS”
Dịch giả: Trân Châu
With the horoscope of the Theosophical
Society and that of various leaders in specific relation to it
(Với lá số tử vi của hội (Theosophia/ Thần triết/ Thông thiên học) và lá số của các nhà lãnh đạo hội có liên quan đặc biệt đến hội)
NEW YORK
- P. DUTTON & COMPANY
1934
Trang b
Kính tặng nhóm Đệ Tử bằng mọi giá
đã quyết tâm đạt được thành công qua các mãnh lực Kỷ Nguyên Mới
Trang c
Dãy số ISBN 978-0-9792665-1-5
Trang d
Lai lịch tác giả
Tôi xin đưa ra một vài chi tiết tiểu sử của tác giả sách này dưới bút danh David Anrias
Sinh ra từ chủng tộc Celtic stock khi còn nhỏ, ông đã có thiên hướng rõ dệt về thiền và thích đi lang thang một mình trong mơ mộng, trong thời gian còn trẻ, từ 1908-1914, ông đã đọc những quyển sách về huyền môn và đặc biệt là chiêm tinh, khiến ông hết sức quan tâm và cố gắng nghiên cứu vấn đề này. Trước đó, ông đã có thời gian đào luyện về nghệ thuật, với năng khiếu đặc biệt họa chân dung bằng bút trì.
Trong thế chiến 1, ông phục vụ 2 năm ngoài chiến trận và được trao tặng huy trương quân đội. Vì làm công tác giao lưu trong bom đạn. Ông nhận nhiệm vụ khác và chuyển đến phi đội. sau khi chiến tranh chấm rứt, Ông cảm thấy rất thiết tha mốn đến Ấn Độ, ở đó ông đã làm việc với bà Tiến sỹ Annie Besant, mà ông hết sức ngưỡng mộ. Vào thời gian đó, ông đã trải qua nhiều tháng tại vùng đồi núi Nilgiri Hills, ở đó với sự nhẫn lại không mệt mỏi, lòng tự hy sinh và bền trí, ông đã trải qua quá trình khó nhọc là (Làm yên lặng các biến thái của thể trí), mà trước đây tôi đã nói đến. Sau nhiều năm cố gắng, ông đã có được sự liên kết với vị Thánh Sư có tên là Đấng Rishi của vùng đồi núi Nilgiri Hills, mà ông có được khả năng giao tiếp với ngài trong trí (1). Vị Thánh Triết cao cả này chuyên về Chiêm Tinh, và trực giác của Ngài cho thấy rằng Anrias có khả năng thực sự rất tốt trong khoa Chiêm Tinh rất khó khăn và rễ bị hiểu lầm này. Chính Ngài đã khuyến khích ông xuất bản một số tiên đoán Chiêm Tinh trong tờ báo Theosophist dù vào thời đó, bị nhiều người hoài ghi, nhưng về sau lại thấy đúng. Khi kết thúc gia đoạn 7 năm mà Anrias ở Ấn Độ, cuối cùng, ông đạt được khả năng giao tiếp với một số vị Chấn Sư Minh triết khác, nhờ đó mà chúng ta mới có được lời dạy và chân dung của các Ngài trong sách này.
Trang e
Anias trở lại Anh Quốc năm 1927 để nghiên cứu về điều kiện tâm linh ở đó, và thực hiện một số công tác kết hợp với những đệ tử khác của các Thánh Sư. Quyển sách này là một phần trong công trình đó. Tôi xin nói rằng, tất cả những khám phá hay là tuyên bố của một cá nhân thì cần được những người khác xác minh. Hay nói cách khác, để đạt đến chân lý, sự phát triển của một người cần được những người khác kiểm tra để cho thấy họ cũng có khả năng làm như thế. Quy tắc này được áp dụng trong Khoa học vật chất, thì cũng được áp dụng trong Khoa học huyền môn. Những người đệ tử khác nói trên đã xác minh rằng, không lời tuyên bố nào của các Chân Sư được đưa ra trong sách này đã là những truyền đạt sai lầm.
CÁC BỨC CHÂN DUNG VÀ BẢN VĂN
Cuối cùng, chúng tôi hiểu được lý do tại sao, một số các Chân Sư đã cho phép đưa ra những bức Chân Dung của các Ngài cho thế gian, là vấn đề mà các độc giả đặc biệt quan tâm.
Trong vài năm qua, ông Mr. Krishnamurti hiện đang nổi tiếng khắp thế giới, đã giao giảng về một loại triết lý, trong đó, ông ta đã hạ thấp giá trị của các Chân Sư, với tư cách là các Huấn Sư và những nhà hướng đạo tinh thần.[1] kết quả là nhiều người sùng kính trước đây thì nay không còn có lòng sùng kính đó, và do tưởng tượng của mình, họ đã tin theo triết lý của Mr. Krishnamurti, trong khi họ chưa đến trình độ có thể hiểu được. Dù chính Mr. Krishnamurti tin rằng ông ta đã được giải thoát và nhờ đó đạt được nhiều phúc lạc vô điều kiện, nhưng nhiều người tôn sùng ông đã rõ ràng cho thấy không thể làm theo như của ông được. Thực tế là trước đây họ đã cảm thấy rất bình an, khi họ tin tưởng vào các Chân Sư, hơn là tình trạng của họ hiện nay. Vì khi hiểu làm một triết lý, thì hầu như là tệ hại hơn việc không theo một triết lý nào.
Theo quan điểm này, và vì những lý do khác phức tạp hơn nên không thể bàn ở đây, các Chân Sư đã tạo ấn tượng những bức Chân dung của các Ngài trên thể trí của David Anrias để được in lại trong sách này. Nhờ đó mà các bức Chân dung có thể được dùng làm tiêu điểm để tham thiền cho những ai đang phấn đấu trong sự hoang mang bất định về tinh thần, cũng như cho những người khác.
Khi viết mấy lời giới thiệu này, chính tôi cũng có khả năng giao tiếp với 3 hay 4 vị Chân Sư, lên tôi hoan toàn đánh giá được giá trị của các bức Chân dung nói trên, với tính cách mục tiêu lý tưởng để ngưỡng vọng bởi những người có trí tuệ chân thật. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể đạt được nguyện vọng đó nếu các Ngài không cho chúng ta những dấu hiệu thuyết phục cho thấy rằng các Ngài vẫn đang hiện hữu? Từ trước đến nay Hội theosophia đã gìn giữ một cách ganh tị, một số bức Chân dung của các Ngài mà Hội đang sở hữu. Dù chính sách vừa kể thì có thể hiểu được vì họ thực sự tôn kính các Ngài, nhưng nay chính các Chân Sư thì không muốn tiếp tục điều đó: vì thế mà có quyển sách này. Dù sao thì cũng cần thận trọng. Không giống các giáo sỹ cứ theo tục lệ mà khiến mọi người chú ý đến lời kêu gọi của mình “ bằng chiếc áo của nhà tu, trái lại các Chân Sư lại cố gắng đánh lạc hướng chú ý của mọi người về các Ngài, vì thế mà không ai có thể biết được lai lịch của các Ngài. Thậm trí các Ngài trong một số trường hợp còn bày tỏ một số đặc điểm tạm thời, hầu như mang dáng vẻ khác đi. Điều này nhắc chúng ta nhớ rằng để trở lên hoàn thiện, trong khi người ta cần phải tỏ ra không hoàn thiện. Ví dụ như trong quyển sách của tôi, Người Điểm Đạo Đồ Trong Chu Kỳ Hắc Ám, thì một vị Chấn Sư người Anh được nói rõ là có những câu nói ngắn ngủn, cộc lốc khiến người ta chỉ trích. Nhưng theo lời giải thích của Ngài, thì Ngài đã cố ý bày tỏ cung cách đó vì người ta có thói quen ăn nói như thế trong vùng nông thôn, nơi Ngài đang ở, mà trong đó Ngài muốn ẩn danh. Nếu người ta biết rằng Ngài là một Điểm Đạo Đồ Cao cấp, thì họ sẽ làm mất thời gian quý báu của Ngài mà vốn được dùng một cách vô kỷ để phụng sự nhân loại, và khiến Ngài không thể tiếp tục công việc được. Vì thế, chỉ có một số Chân Sư hiện đang sống trong những vùng xa sôi hẻo lánh, không ai đến được, hoặc những khu vực biệt lập khác, thì mới cho phép đưa ra những bức chân dung của các Ngài. Những Chân Sư nào sống lẫn lộn với người đời, như trường hợp các vị được nói đến trong quyển Người Điểm Đạo Đồ Trong Thế Giới Mới và quyển Người Điểm Đạo Đồ Trong Chu kỳ Hắc ám, thì phải che giấu tung tích của mình, để tránh khỏi bị nhận ra. Tuy nhiên, Chân Sư (Master) Hilarion đã hứa là cho ta một bức Chân dung của Ngài hồi còn trẻ, và một bức Chân dung khác trong kiếp trước của Ngài là Thánh Paul. Ngoài ra tôi cũng xin nói rằng, bức chân dung của Chân Sư Serapis cho chúng ta thấy hình dáng của một Thiên thần.[2]
Nói theo ngôn ngữ của các bài tham thiền, thì hầu như người truyền đạt thường theo lối nói của từng vị Chân Sư có liên quan. Với những ai chưa từng nghiên cứu Huyền Bí Học, thì việc nói về những cảnh giới để tư tưởng biểu lộ và truyền đi qua ngôn từ vụng về, có vẻ khó khăn và khó hiểu. Dù sao thì những cảnh giới đó thì vẫn đang hiện hữu, như đã được xác nhận bởi nhiều nhà Thần bí qua các thời đại khi họ cho biết rằng, hầu như họ không thể diễn tả được các kinh nghiệm của mình. Thậm trí ngay trong cuộc sống đời thường, chúng ta cũng thấy có những khi lời nói làm lệch lạc các ý tưởng hơn là truyền đạt chúng chính xác cho người khác biết. Vì thế, sẽ là một lợi điểm khi phát triển những quang năng dùng tư tưởng để phóng chiếu ngay tức khắc từ thể trí này đến thể trí khác mà khỏi phải dùng lớp áo chậm chạp của ngôn từ. Bằng cách này, các Chân Sư liên lạc với nhau qua không gian, cũng như với các đệ tử nào của Ngài đã tiến hóa cao đến mức đáp ứng được tần số rung động đặc biệt của Ngài.
Tóm lại, tôi có thể nói rõ rằng, dù chỉ có 9 vị Chân Sư được nêu ra trong sách này, hiện có khoản 60 vị đang có thể xác ở cõi trần với nhiều quốc tịch khác nhau. Ngoài những quyền năng khác đang có, các Ngài còn có thể giữ được thể xác sống lâu hơn độ tuổi của người bình thường, và thậm trí còn duy trì được hiệu năng, và ngoại hình tương đối trẻ trung của thể xác ấy, đôi khi đến mấy trăm năm.
Tuy nhiên, việc kéo dài sự trẻ trung của thân xác này không phải là điều quan trọng, và các Ngài không muốn hướng dẫn mọi người tiến trên đường đạo theo cách đó. Vì các Ngài muốn mọi người có thể đạt được Quyền năng vĩ đại hơn, những Tiện ích lớn lao hơn và niềm Phúc lạc vô điều kiện mà các Ngài đang có.
Trang i, Trang k (Không có thông tin)
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ xáo trộn này, khi mà ngay cả những người can đảm nhất thời nay cũng cảm thấy hoang mang không biết tin vào đâu hoặc làm thế nào để hành động với tầm nhìn xa rộng cũng như quyết định đúng đắn, khi những tiêu chuẩn và quy ước xưa cũ đang bị từ bỏ trong khi chưa có gì thay thế, thì đương nhiên hầu hết chúng ta đều thấy bối rối và tự hỏi vì sao mà có những sự xáo trộn đang ảnh hưởng đến mọi chủng tộc và mọi quốc gia.
Chỉ có các môn sinh huyền bí học hoặc người học khoa Chiêm tinh trong trường hợp này mới phần nào hiểu được vấn đề. Vì họ nhận thức rằng thế giới đã đi vào chu kỳ mới, trong đó những truyền thống sinh hoạt cũ kỹ tất nhiên phải nhưỡng chỗ cho các mãnh lực của thời đại mới, mà thậm trí hiện nay đang biểu hiện trên toàn thế giới.
Nhờ giao tiếp với các Chân sư Minh triết và nhờ học khoa Chiêm tinh, tôi đã có thể phần nào thấy được nguyên nhân của sự băng hoại chung vừa kể cũng như dự đoán một số phát triển về sau rất có thể sảy ra, nhắc lại ở Tây phương.
Ở đây, chúng tôi không đề cặp đến phương pháp để thu đạt được kiến thức huyền bí nói trên, vì điều đó đã được bàn chi tiết trong lời nói đầu một quyển sách trước đây của tôi. Qua cái nhìn của các Chân sư, với mục đích nhằm xóa bỏ mối nghi ngờ mà Mr. Krishnamurti đã tung ra về năng lực của các Chân sư có thể giúp đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại.
Quyển sách này cũng có mục đích ngay trước mắt là cố gắng nhiều hơn nhằm cho thấy sự thật trái lại: Là các Ngài đã liên kết chặt chẽ đến đâu với sự phát triển tương lai của con người, khi họ cố gắng hiểu biết về năm đại nguyên tố là những yếu tố hình thành bản tính của mình.
Lời khẳng định này cần được xem xét kỹ hơn. Như chúng ta biết, thể xác con người gồm có 5 nguyên tố hồng trần: Địa, Thủy, Phong, Hỏa, và dĩ thái xuyên suốt tất cả. Các thể thanh của con người, tức là thể cảm dục hay tình cảm, thể trí và thể bồ đề hay còn gọi là thể tinh thần, thì cũng gồm các trạng thái tinh vi hơn của ngũ đại vừa kể, với những mức độ khác nhau. Ví dụ như thể cảm dục thì có liên quan đến nguyên tố Thủy, thể trí liên quan đến Phong, và dĩ thái và thể bồ đề liên quan đến Hỏa. Trong lá số tử vi của mỗi cá nhân, một nguyên tố thường nổi bật lên các nguyên tố kia, nhưng mục tiêu tối hậu của con người là đạt được sự hiểu biết tự thức và kiểm soát được lần lượt mỗi nguyên tố trên con đường hướng thượng của mình đi vào ánh Sáng.
Để đạt mục đích của tham thiền, hầu như không thể được giữa các giòng tư tưởng xung đột trong những thành phố, tôi thường sống ẩn dật ở một nơi hoang vắng trên bờ biển. Ở đó, khí địa, Phong và Thủy giao hòa, thì một số vị Thánh Sư đã có thể dùng quan năng thần thông để tạo ấn tượng cho tôi về nhiều vấn đề đang có trong thời đại hiện nay. Tuy nhiên sự hiểu biết này đã chỉ được đưa ra để đến phiên tôi có thể chia sẻ nó với những người bạn cùng tìm chân lý. Một chuỗi các ý tưởng được truyền đến tôi dưới dạng những bức ảnh có thể hiểu được, thường gồm các khái niệm mà tôi đã quen thuộc, và cuối cùng đã phối hợp được vào kỳ trăng non tháng ba, 1933, trong điều kiện tâm linh hết sức thuận lợi, những hiện tượng loại này có thể đạt nhờ Ánh sáng Cảm dục, tạm thời được làm linh hoạt bởi chất liệu của cõi thượng thiên.
Quy trình này luôn luôn được một số Thánh Sư sử dụng, hoàn tất mà không cần lời nói, với mức tiếp kiệm mãnh lực đến mức tối đa có thể. Tôi đã cố gắng giữ lại một số điều ngắn gọn của kinh nghiệm sống động này bằng cách loại bỏ bớt.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
LỜI NÓI ĐẦU
THỜI ĐẠI ĐANG THAY ĐỔI
Các Thánh Sư của Địa
Các Thánh sư của Thủy
Các Thánh sư của Phong
Các Thánh sư của Hỏa
Các Thánh sư của Dĩ thái
Phụ lục A
Phụ lục B
THỜI ĐẠI ĐANG THAY ĐỔI
Trên vùng biển yên tĩnh, sống một mình trong chiếc lều có 2 phòng, tôi ngồi tham thiền vào những giờ sáng sớm. Ở bên ngoai, tôi nghe những tiếng hót đầu tiên của chim chóc, hòa vào tia nắng đầu tiên của bình minh. Ngoài ra thì hoàn toàn yên tĩnh, trừ những đợt sóng nhẹ nhàng sô vào bờ cát. Trong cảm nhận chung về sự yên tĩnh này, tôi bỗng nhiên ý thức được sự hiện diện của Chân sư của tôi, hào quang của Ngài thấm nhuần nơi này với sự an tĩnh sâu xa. Trí tôi lập tức dừng suy nghĩ về những vấn đề này hay khác, và bắt đầu hòa vào tâm thức của Ngài. Tôi biết rõ về phẩm tính hiếm có của chỉ riêng Ngài, quyền năng có kiểm soát, kết hợp với trí năng tinh tế, có thể đáp ứng với ảnh hưởng của những tín hiệu vũ trụ xa xôi. Bằng cách này, giờ đây tôi được nâng lên và hợp nhất với Ngài. Tôi có thể thấy được, như nhìn qua mắt Ngài, và hiểu được một số lý do tiềm ẩn của tình trạng xáo trộn.
Thời gian của mỗi giai đoạn hay chu kỳ chính, đều đáp ứng với nguyên tố riêng của nó. Tất nhiên, khi đến cuối chu kỳ đó, có sự tái hiện ở cấp vũ trụ của 4 nguyên tố có liên quan đến địa cầu chúng ta. Chúng được tái phân cực qua những đặc trưng chính yếu của cung hoàng đạo mà bấy giờ đang chế ngự. Vì thế, vào thời kỳ vừa kể là thời kỳ chuyển tiếp giữa nền tôn giao này với nền tôn giáo khác có sự xung đột mạnh mẽ giữa chu kỳ Song Ngư đang trôi qua và chu kỳ Bảo Bình, hiện đang ảnh hưởng thế giới trong 2000 năm tới.
Đại Đoàn Trưởng Giáo, đang hướng dẫn vận mệnh của con người trong cõi vô hình, luôn luôn tham gia vào sự thay đổi quan trọng đó. Một số Thánh sư, có liên kết tinh thần chặt chẽ với cung mới này, qua tham thiền về nó trước trong nhiều thế kỷ, thì trở lên hòa hợp với tần số rung động cao nhất của cung đó. Tương tự, các Ngài cũng có năng lực siêu hóa các nguyên tố thấp kém hơn của nó, để chống lại các Lực lượng Hắc đạo đang cố làm chậm trễ sự ra đời của Thời đại mới, theo mức độ mà nghiệp quả cho phép.
Đương nhiên, một số từ lực tuôn đổ qua các cung hoàng đạo thì có sức hấp dẫn nhiều hơn với cung thuộc về Phong của thời đại mới này hơn những cung khác, và cung có nhiểu khả năng gây trở ngại cho sự phát triển của nó là Song Ngư, với ảnh hưởng bao trùm chu kỳ trước. Những cung có sức hấp dẫn lớn nhất với Bảo Bình là Thiên xứng và Song tử, vì cùng có nguyên tố Phong, giống như Nhân mã và Bạch dương, vốn có ảnh hưởng tốt tương tự của nó, và tất cả hình thành một góc 60 độ thay vì một góc 120 độ. Ngoài ra hai cung sau cũng bổ xung cho Bảo Bình, vì nguyên tố Hỏa của chúng dễ liên quan đến nguyên tố Phong.
Từ lực của 2 cung còn lại là Hổ cáp và Cự giải, giống như Song ngư đều có thể là không nhiều hấp dẫn với các lực của Bảo Bình. Vì Hổ cáp có ảnh hưởng trực tiếp hay xấu với Bảo Bình, còn Cự giải thì vừa tiêu cực và bảo thủ, và đặc trưng chính yếu của nó là có khuynh hướng bám chặt vào quá khứ. Ngoài ra các mãnh lực của 3 cung Địa này còn tỏ ra gây trở ngại nhiều hơn vì chúng gồm có loại vật chất đậm đặc nhất. Cung Xử nữ hoặc Ma kết đều không có nhiều ái lực với Bảo Bình, trong khi đó Kim ngưu vốn là một cung cố định, là ảnh hưởng trực tiếp đến Bảo Bình, do đó nó mạnh mẽ chống lại tất cả các thay đổi trong vũ trụ có hiệu quả tốt đẹp cho thế hệ đang lên và ngay cả cho chính hành tinh này.
Theo điều kiện này, tất nhiên những vị Thánh sư đang cố gắng vận dụng các mãnh lực tinh thần kết hợp với Thời đại mới sẽ phải làm việc hết sức khó khăn trong vài thế kỷ tới. Vì họ không những phải nhận biết tương lai đến mức nào đó, mà còn tránh làm vô hiệu hóa công tác của những vị trong các huynh đệ của mình là những Thánh sư đang lo cho đa số những ai hãy còn bám chặt vào các truyền thống và những tập quán tôn giáo cổ xưa, để bảo vệ những mãnh lực sắp tàn lụi của thời đại đang đi qua. Nhiệm vụ của các Thánh sư này cũng khó khăn, vì bao giờ các Ngài cũng phải tranh đấu với những quyền lực hủy diệt họ cố lợi dụng thời kỳ đang thay đổi để gây khốn khổ, bất ổn và sáo trộn ở bất cứ nơi nào có thể.
Qua tâm thức của Chân sư của tôi, tôi có thể nhận thức được nhiều điều mà trước đây nhường như quá bí hiểm đối với tôi, cũng như với quá nhiều người khác về sự tuôn đổ mãnh lực tinh thần vĩ đại vào cuối một chu kỳ nhỏ của Thời Mạt pháp cách đây khoảng 18 năm, với kết quả là sự sáng lập Phân bộ Bí giáo của Hội Theosophia. Như mọi môn sinh huyền bí đều biết, một lượng lớn các kiến thức nội môn đã được đưa ra cho thế gian qua vị đại điểm đạo đồ H.P. Blavatsky. Nhờ một sự hy sinh của Huyền môn chính đạo trên các cảnh giới cao siêu, mà trọn cả bầu hào quang của địa cầu đã được nạp các dòng năng lượng tinh thần. Chúng bao bọc địa cầu với tần số rung động ngày càng cao, kích thích những ai có khả năng nhạy cảm nhiều để họ nỗ lực nhiều hơn khi tìm kiếm nguồn minh triết tinh thần. Các luân xa trong thể dĩ thái – thể xác ngày căng có khả năng đáp ứng với ảnh hưởng của các cảnh giới cao siêu, dù thực tế là nhiều người trong họ vẫn tích cực làm việc ở trần gian. Tất nhiên, những người nam, nữ này phải chịu sự căng thẳng rất lớn mà họ chưa từng gặp phải, như là các môn sinh huyền bí hay nhà thần bí có tiềm năng của thời xưa, mà dĩ nhiên là họ đã lui về sống ẩn dật trong các đền thờ hay tu viện. Tập quán rút lui khỏi cõi đời để giao tiếp với những thực tại tinh thần qua công phu tham thiền sâu xa, đã tiếp diễn trong suốt thời kỳ Song Ngư, tức là cung thứ 12, nó vốn cũng khiến họ có ý muốn đồng thời tạo điều kiện thích hợp để họ sống ẩn dật. Thế nhưng với chu kỳ mới này, thì những phương pháp kể trên không còn được áp dụng, Bảo Bình có khuynh hướng chuyển các mãnh lực ra ngòai thay vì hướng vào bên trong, qua công tác cộng đồng và những hoạt động công ích tương tự, kết hợp với cung thứ 11 này.
Tất nhiên phải có thời gian chuyển tiếp giữa bất cứ hai chu kỳ nào, bấy giờ điều có thể làm duy nhất là sử dụng những phương pháp giao huấn huyền môn kết hợp cái cũ và cái mới nhiều đến mức có thể. Thế nên, việc huấn luyện nhóm môn sinh huyền bí đầu tiên ở tây phương phần lớn là theo các phương pháp của Ấn Độ, gồm những giao huấn nghiêm ngặt phải được nhất nhất tuân theo.
Sau khi bà Blavatsky”s qua đời, tiến sỹ Annie Besant cố gắng duy trì giới luật vừa kể của Ấn Độ, mà chính bà thấu đáo mau lẹ và thực hành nghiêm chỉnh trong đời sống hàng ngày, dù thực tế là bà vẫn thoải mái giao tiếp với mọi người ở ngoại giới. Không thể nói bà đã đã đạt được điều này đến đâu qua sức mạnh ý trí, và bà đã quay về với những tập quán bẩm sinh nhiều đến đâu khi chúng ta biết rằng bà đã là người Ấn Độ ngay kiếp trước. Chẳng bao lâu, Huyền môn chính đạo thấy rõ rằng dù một điểm đạo đồ người Ấn đang hoạt động qua thân xác Tây phương có thể nhanh chóng chế ngự thân xác ấy qua các thể cao thuộc về Ấn Độ của mình trước đây được giữ lại cho mục đích đó, thì hầu như người đạo sinh mức trung binh ở Tây phương không thể duy trì tiêu chuẩn thanh khiết của thân xác theo lối xưa của Đông phương, khi họ đang ở trong điều kiện hiện nay.
Cũng có những điều khó khăn khác. Giáo lý Bí nhiệm là đối tượng chính của việc tu học tập thể, thế nhưng thể thượng trí của người đạo sinh trung bình ở Tây phương đang bị hoang mang bối rối thì thường tỏ ra không được trang bị đầy đủ cho nhiệm vụ này. Tương tự, việc tham thiền vào sáng sớm với bụng trống, thường từ 6-7 giờ sang, dù là tương đối rễ tuân thủ tại Ấn Độ, nơi mà cả tập quán lâu đời và điêu kiện khí hậu đều thuận lợi, thì dường như không thể thực hiện ở Tây phương.
Khoảng năm 1912, các Thánh sư đã bảo trợ cho Hội Theosophia nhận thấy rằng điều một điểm đạo đồ có ý trí mạnh cũng như có phương tiện tạo lên các điều kiện chung quanh cho chính mình, thì không khả thi cho một môn sinh trung bình Tây phương vẫn còn nặng mang nghiệp quả xưa hoặc một cơ thể mảnh mai.
Vì thế các Chân sư ngài đã thực hiện việc truyền mãnh lực huyền bí, mà từ trước đến nay chỉ hoàn toàn giới hạn ở cõi thượng thiên, xuống đến cõi hạ thiên và sau đó đến cõi cảm dục, qua việc sử dụng huyền thuật ghi lễ trong nhóm.
Đương nhiên, việc truyền mãnh lực này khiến các Ngài phải hy sinh rất nhiều,[3] và cần có sự hợp tác của một vị Thánh sư khác, đã từng kết hợp với những phương pháp huấn luyện nội môn dành cho Tây phương qua nhiều thế kỷ, và đã có thân xác thích hợp cho loại công việc này.
Vì lý do thay đổi chính sách nói trên chưa được giải thích, nên nhiều hội viên đã từ bỏ Hội, vì họ cứ tưởng là nếu không theo đúng các tiêu chuẩn ban đầu mà bà H.P. Blavatsky đưa ra thì có nghĩa là thất bại. Những người đã vào Hội vào thời kỳ mà việc nghiên cứu nội môn thuần túy và đơn giản được áp dụng, đã rời bỏ Hội, phần lớn là vì nghiệp quả của họ không thuộc loại có thể được thanh toán qua nghi lễ và qua nghiệp quả của nhóm, mà dạng hoạt động này tất nhiên phải có.
Để giúp ích những người chưa quen với các thuật ngữ khoa Chiêm tinh, ở đây tôi xin nói rõ nguyên tố Thủy chế ngự cõi tình cảm hay cảm dục, mà huyền thuật nghi lễ có liên quan mật thiết. Từ đó, Hội Theosophia, hầu như vô tình đã đi vào một chu kỳ ngắn cần cách hoạt động kết hợp với nguyên tố Thủy hay yếu tố tình cảm này, mà cũng lạ là nó đã chế ngự tất cả các nguyên tố khác trong lá số tử vi thành lập hội vào tháng 11/1875.[4]
Sự kiện Chiêm tinh này đã bị một vài Thánh sư nghi vấn, tuy nhiên, với tầm nhìn xa rộng, các Ngài đã thấy rằng nó có thể mang lại cơ hội tiến triển nhưng trước mắt cho một số loại Chân ngã.[5]
Các Thánh sư của Địa
Hải Vương Tinh ở mức cao nhất kết hợp với nguồn bác ái tinh thần và yếu tố thần bí trong Thiên Chúa giáo đang đi vào cung Kim Ngưu thuộc Địa vào thời điểm sáng lập Hội Theosophia, nhờ đó mà hóa giải được khá nhiều yếu tố cứng rắn và không thỏa hiệp của Kim Ngưu, tạo điều kiện cho các nhà thần bí của thời xưa nay tái sinh có thể phục hồi được một số ký ức và kinh nghiệm tôn giáo trước đây của họ. Điều cũng có ý nghĩa là Hải Vương tinh là hành tinh duy nhất trong một cung thuộc về Địa, nên nó ít tạo điều kiện để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, khiến có khuynh hướng quay vào nội tâm, để giao tiếp với các cảnh giới cao siêu qua tham thiền.
Nhờ cá nhân họ tôn sùng Chân sư Jesus trong thời kỳ Thiên Chúa giao, một số chân ngã đã phát triển năng lực tham thiền đến mức cao. Những người này không thấy cần có nghi lễ, và họ cũng không cảm thấy muốn bày tỏ chính mình qua phụng sự.
Theo bản năng, trong kiếp sống này họ thấy có sức hấp dẫn đến các giáo đường hoặc những nhà thờ cổ kính thời xưa, và Chân sư Jesus đối với họ là một thực tại sống động trong tham thiền, khi họ chiêm ngưỡng những khung cửa số bằng kính màu xinh đẹp mô tả cuộc đời hy sinh của Ngài. Ở những nơi linh thánh này là những địa điểm ban ân huệ cho thế gian, họ mơ hồ cảm thấy rằng yếu tố cảm dục hay tình cảm trở lên tĩnh lặng, thấm nhuần sự rung động của vị Đại Thánh sư là người bảo vệ tâm hồn của nhà Thần bí, cũng như của những người sùng đạo chân thành.
Cuộc đời của người môn sinh tiến trên đường đạo qua huyền học thì thường được sắp sếp thế nào để y có thể ở yên một nơi trong quá trình học tập khó khăn để làm an định thể trí và khi nó đáp lại ảnh hưởng của Chân sư của mình. Thường thì y vô tình lui vào một trung tâm mà trước đây đã được từ hóa bởi một điểm đạo đồ có cùng quốc tịch với mình. Bởi vì có thể hòa hợp với Chân sư rễ dàng hơn nhiều qua tần số rung động huyền bí đặc biệt của chính đất nước của y hơn là qua tần số rung động của một nước khác.
Khi nhà thần bí đã phát triển năng lực đáp ứng ở nội tâm với Chân sư của mình đến mức hoàn hảo, thì y có thể giao tiếp với Ngài dù đang ở trong điều kiện hoàn cảnh nào, và đến mức này sự thụ động của nhà thần bí hòa vào tính năng động của nhà huyền bí học.
Trong khi tham thiền về ảnh hưởng của các trung tâm từ hóa nói trên, tôi được Chân sư của mình dùng tư tưởng đưa đến một nhà thờ cổ sưa ở Chelsea mà ở quanh đó, trước khi dời Đông phương, tôi đã trải qua cuộc huấn luyện thần bí của riêng mình, và từ đó về sau đi đến đâu tôi cũng trở lại hoàn tất việc huấn luyện ấy một cách tích cực hơn.
Ngài cho tôi biết rằng, ở bất cứ nơi nào một vị đại điểm đạo đồ đã cố gắng thực hiện cho chính mình một số chân lý cơ bản của huyền bí học, thì vùng đất chung quanh nơi người cư ngụ cũng nhận được phần nào phẩm tính tinh thần và từ lực của người. Thực ra không phải nói quá khi cho rằng các điều kiện dĩ thái và thể chất do người đó tạo ra có thể còn tồn tại qua nhiều thế kỷ sau khi người đó qua đời.
Nhà thờ ở Chelsea và vùng đất lân cận, mà trước đây đã từng là vườn hoa xinh đẹp dọc theo bờ sông, theo cách này vẫn còn giữ được một số rung động của Ngài (Sir) Thomas More, người đã sống ở đó trong thời gian khá lâu trước khi chịu tử đạo, là điều rất thường khi sảy ra cho vị điểm đạo đồ chết vì một lý tưởng vượt ngoài tầm hiểu biết của người đương thời. Qua tiếp xúc với những điều kiện kể trên, tôi giao tiếp được phần nào với cá tính của nhân vật nổi tiếng, người đã kết hợp năng lực nội tâm của nhà thần bí với nhà tư tưởng trong chức vụ điều hành. Sau đó tôi bắt đầu nhận thấy sự hiện diện sống động của Ngài vấn còn bao trùm địa điểm được từ hóa này. Tôi cảm được chính cái trí tuệ đó chịu hạn chế trong giới luật và chờ đợi vào thời đó khi nước Anh sẽ có khả năng đáp ứng với vai trò lãnh đạo huyền môn từ nguồn cảm hứng cao siêu. Vì dự kiến sự phát triển này lên những trung tâm khác nhau đã được Ngài từ hóa trước đây nay vẫn được bảo vệ để một số Chân ngã tiến hóa cao có kết hợp nghiệp quả với nước Anh, có thể vào một thời điểm nào đó trong tương lai liên kết được ở cấp dĩ thái hay ở cấp hồng trần với các Thánh sư người Anh đang hướng dẫn vận mệnh chủng tộc của họ.
Tại những trung tâm này, nếu đã phát triển quang năng nhĩ thông đúng mức, họ sẽ nhận được cuộc huấn luyện nội môn thích hợp cho công tác của mình ở ngọai giới. Những người mà nghiệp quả xưa cho phép họ nhạy cảm hơn và có được một mức độ nhãn thông, thì sẽ được biết kế hoạch chung của tương lai đất nước về mặt huyền bí, mà họ nhận được ấn tượng, lưu giữ trong trí, trong thời gian họ làm việc hiện nay.
Về phương diện này, tôi cũng được biết rằng, phần nhiều trong số các Chân ngã này, trước đây đã là vua, hoặc có chức vụ thẩm quyền khác có liên kết quan trọng với một nước, thì tái sinh vào nước ấy để giúp nó thăng tiến và thanh toán nghiệp quả đặc biệt mà chỉ có thể thực hiện trong các chức vụ và trách nhiệm.
Sau khi thoáng nhìn vào tương lai chủng tộc của minh, tư tưởng của tôi quay về hiện tại. Tôi nhận thấy rằng những mẫu người tiến hóa cao nhất trước đây đã đáp ứng ảnh hưởng của Thiên Vương tinh thì nay đang hoạt động khắp nới và có khuynh hướng phát triển tinh thần quốc tế trong tất cả các thành phố hàng đầu của phương tây. Với phương tiện lữ hành ngày càng nhiều, với ảnh hưởng sâu rộng của đài phát thanh, và việc dịch thuật những vở kịch và phim ảnh đã thành công sang nhiều ngôn ngữ, ở khắp nơi đã hình thành một quan điểm mới có tính quốc tế. Quan điểm này phản ánh trong nghệ thuật, văn chương và thậm trí trong ngành kiến trúc của thời đại, vì các cấu trúc đồ sộ của New York đang được tái lập trên quy mô nhỏ hơn trong mọi thành phố trên thế giới.
Tôi cũng thấy rằng cái tinh thần quốc tế ngày căng gia tăng này đã được Chân sư Rakoczi His bồi dưỡng, với trí tuệ tuyệt vời của Ngài có trong mọi hoạt động và khuynh hướng tư tưởng.
Trong lĩnh vực chính trị, Ngài đặc biệt tích cực, nhất là trong những nước có thể tỏ ra là mối nguy cho những nước láng giềng, và ưa gây chiến. Thường thì vào những thời điểm khủng hoảng, Ngài đối phó với các khuynh hướng đó bằng cách tạo ấn tượng với những gợi ý bất ngờ và sáng suốt vào thể trí của một số chính trị gia có khả năng đáp ứng với phàm nhân thuộc Thiên Vương tinh của Ngài. Tôi thấy rằng chẳng bao lâu nữa một nhóm người như thế sẽ kết hợp để mang lại hòa bình thế giới và phát triển một phương án toàn diện liên quan đến Thiên Vương tinh để duy trì nền hòa bình đó. Bằng cách này tạo ra các tiêu chuẩn chinh trị hoàn toàn mới cho những người kế nhiệm.
Sau đó Chân sư của tôi cho thấy rằng, các rung động của Thiên Vương tinh và Hải Vương tinh quá cao lên không thể ảnh hưởng đến người bình thường hiện nay mà không bị lệch lạc ngay khi các rung động đó tiếp xúc với các thể còn thiếu phối hợp của họ. Sự đối lập mật thiết của 2 hành tinh này đã kéo dài qua nhiều năm trong những thời kỳ tương đối gần đây đã tuôn đổ xuống địa cầu những mãnh lực tinh thần vĩ đại, mà vì phần đông nhân loại còn chưa đủ tiến hóa để sử dụng chúng, lên đã biểu lộ thành nhiều lối khác nhau tăng cường tính vị kỷ.
Trong số những biểu hiện bất hảo khác, rõ ràng là con số đông đảo những người đồng tính đã gia tăng lớn lao. Vì Thiên Vương tinh kết hợp với phương diện dương cuả sự đồi trụy về tình dục,[6] và Hải Vương tinh kết hợp với phương diện âm. Chuyển động trái ngược của chúng liên quan đến mặt trăng thì được nối kết với sự phát triển này, và dễ khiến cho những người đáp ứng với ảnh hưởng thấp của các hành tinh này trở lên có cá tính rất mạnh qua sự tái phân cực các thể cảm dục và dĩ thái. Những tinh cảm là hậu quả của nó thì biều lộ ra dưới dạng méo mó và lệch lạc [7], và có ý muốn ngày càng tăng để thỏa mãn những cảm giác kỳ lạ bằng mọi giá. Sự tái phân cực này cũng được tăng cường hơn nữa vì Thiên Vương tinh có khuynh hướng tri phối thể trí của đàn ông và tình cảm của phụ nữ, trong khi Hải Vương tinh thường chi phối tình cảm của đàn ông và thể trí của phụ nữ.[8]
Mỗi giới tính, thay vì tìm cách bổ sung trong giới tính kia, thì lại cảm thấy không thỏa mãn và hướng vào bên trong chính mình qua chuyển động trái ngược liên quan đến mặt Trăng của 2 hành tinh này, mà sự rung động của chúng thường được dùng để làm tuôn đổ nghiệp quả thuộc tình cảm nhằm giúp chân ngã đó thoát khỏi các ham muốn của cá nhân trong các kiếp sống tương lai.
Tuy nhiên, thậm trí ngay kiếp sống này cả đàn ông và phụ nữ đều vẫn có thể vượt cao hơn những ham muốn về sắc dục, để tiếp xúc với những rung động cao siêu của Thiên Vương tinh và Hải Vương tinh. Phương pháp thăng hoa của người Hy Lạp thời xưa qua nguyện vọng siêu hình[9] nay vẫn còn là cánh cửa duy nhất mà nhờ đó người ta có thể đạt được sự hợp nhất tinh thần đích thực, và điều này cũng áp dụng cho người phụ nữ trong tương lai, khi họ thấy mình tự trang bị tốt hơn để áp dụng phương pháp phát triển này, so với những người của thời đại trước ít mạnh dạn hơn.
Trong vài thế kỷ tới, các luân xa trong dĩ thái hồng trần của cả hai giới đều có nhiều thay đổi, một trạng thái chuyển tiếp vốn phải đi trước sự ra đời của Căn chủng Mới. Giờ đây Chân sư cho tôi thấy một số hình ảnh của các nền văn minh thời trước, và so sánh chúng với hình ảnh của nền văn minh hiện tại. Nhờ đó, trong thời gian ngắn tôi thấy rằng bằng cách nào mà những chủng tộc khác nhau đã tiến hóa và biệt hóa với nhau nhờ trật tự làm sinh động các luân xa dĩ thái hồng trần của họ.
Trong trường hợp của Căn chủng Thứ tư, mãnh lực sống đã được chuyển từ nhật tùng lên luân xa cổ họng, từ đó lên đầu và cuối cùng đến luân xa tim.
Đến cuối nền văn minh Atlantis sự phát triển này thường dừng lại ở luân xa đầu, khiến cho thời đó các nhà hắc thuật chiếm đa số. Để chống lại khuynh hướng này trong giống dân mới của Ngài, Đức – Vata, là vị Bàn Cổ hay là Nhà cai trị Căn chủng Mới Thứ năm, đã đảo ngược thứ tự làm sinh động, bắt đầu với luân xa tim, rồi đến luân xa cổ họng, sau đó đến luân xa đầu và cuối cùng là nhật tùng. Rõ ràng là đường hướng phát triển của Giống dân Thứ năm này cũng có những bất lợi, ở chỗ luân xa nhật tùng, chặng cuối cần được sinh động, đã bị bỏ qua, vì thế mà gây lên vô số những điều khó khăn, mà nói theo lối hiện nay là các mặc cảm, đã phát sinh. Ở phương đông, luân xa nhật tùng này được gọi là Lưới của Sự sống[10] và có truyền thống lưu lại từ Phân chủng Thứ nhất của Căn chủng Thứ năm, trong thời gian mà giống dân mới này hết sức cố gắng để thoát ra khỏi ảnh hưởng đang tàn lụi của thời kỳ Atlantis, cho biết rằng phải tránh luân xa này bằng mọi giá và nó chỉ được vị Đạo sư vận dụng mà thôi. Truyền thống này vẫn duy trì cho đến ngày nay, thế nên ở Tây phương, vào thời gian đầu của Căn chủng Mới Thứ sáu, có cố gắng thử tìm hiểu luân xa này theo cảm hứng của một số vị Thánh sư.
Thế là phương thức phân tâm học tạo lên một dạng hoạt động của thể trí – thể cảm dục – thể dĩ thái, giáng xuống từ não bộ vào nhật tùng, và cuối cùng đi lên luân xa tim khi người ta đã hiểu và kiểm soát được tiềm thức. Theo đó, là cách này đường hướng phát triển mới sẽ khác với cả hai đường hướng trước đây.
Tuy nhiên phương pháp này trong thời gian hiện nay lại nguy hiểm ở chỗ thay vì được nâng lên trí tuệ của siêu thức bên trong luân xa tim, thì mãnh lực sống trước đây đã giáng xuống thì nay có thể vẫn còn tập chung vào tiềm thức, nơi mà mọi sự chỉ được xem trong phạm vi các biểu tượng tình dục.
Sự giáng xuống này không chỉ biểu lộ trong phân tâm học, mà còn có trong cả xu thế của tư tưởng thời nay, trong các loại âm nhạc có tính cách bất hòa hiện nay, với khuynh hướng khuấy động các yếu tố man rợ trong tiềm thức; trong hội họa ngày nay khi mà cũng chính điều đó lộ rõ qua việc cố ý sử dụng các hình dạng và màu sắc nguyên thủy; và cuối cùng là trong các sách vở hiện nay qua việc phân tích một cách tàn nhẫn đủ loại ham muốn, hoàn toàn không còn chút gì thanh bai tế nhị.
Khi nói thêm về chính khoa phân tâm học, giống như Thiên Vương tinh vốn kết hợp với phương diện trí tuệ, Hải Vương tinh ảnh hưởng nhiều hơn đến yếu tố đồng cảm của khoa này, và khiến nhà phân tích có thể tự đồng hóa với bệnh nhân của mình.
Khỏi phải nói, trước sự đồng hóa này bị nhấn mạnh quá nhiều, thì bệnh nhân sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào nhà phân tích. Việc chống lại khuynh hướng phát triển phương diện ý chí này của Thiên Vương tinh là điều thiết yếu để bệnh nhân tự mình có thể hoàn toàn tự chủ được phần chí tuệ trong tiềm thức của mình, nhờ đó mà theo thời gian có thể hoàn toàn không còn cần đến việc phân tích từ bên ngoài.
Tôi cũng thấy rằng trong khoảng năm 1938-1941, khi hai hành tinh này sẽ có ảnh hưởng tốt lành với nhau từ các cung Kim ngưu và Xử nữ thuộc về Địa, thì một phương pháp của thời Atlantis cổ xưa nhằm kết hợp ý chí với trí tuệ trong tiềm thức sẽ được một vị điểm đạo đồ tái phát hiện và được thực hành bởi một nhóm các môn sinh huyền bí, nhưng với trình độ cao hơn. Đồng thời tôi thấy rằng khi được sử dụng thích hợp, phương pháp này sẽ gia tăng sự điều hòa và ổn định trong tất cả các thể của con người, giúp họ trở thanh khí cụ nhiểu năng lực hơn và tích hợp hơn để phụng các Chân sư.
Các Thánh Sư của Thủy
Đến đây Chân sư của tôi cho thấy những hình ảnh khác liên quan đến nguyên tố Thủy và cõi cảm dục. Nhờ đó tôi có thể thấy các cố gắng của Chân sư Rakoczi”s trong suốt các thế kỷ qua để tinh thần hóa châu âu trong thời trung cổ. Chuyển sang dòng tư tưởng mới này, tôi thấy rằng vì vận mệnh của nền văn minh Tây phương là tiến hóa theo những đường lối hợp tác có ý thức, lên điều thiết yếu là những người tiến hóa cao trong chủng tộc cần cố gắng áp dụng nguyện vọng này, ngay cả trong huyền bí học. Để tạo điều kiện rễ dàng thực hiện nguyện vọng vừa kể, và tạo ra phương pháp có giới luật nội môn thích hợp cho Châu Âu, Chân sư Rakoczi đã tái sinh hết thế kỷ này sang thế kỷ khác ở Phương Tây, chịu tất cả những hạn chế về thể chất của mỗi thời kỳ, trước hết với tính cách nhà thần bí và sau đó là nhà huyền bí học. Trong giai đoạn hai, Ngài đã sửa đổi một số nghi lễ huyền môn của thời cổ Ai Cập thành thể thức thích hợp cho các thời kỳ đó.
Không may là các cố gắng trong thời gian đầu nhằm làm cho ý thức về tình huynh đệ thật sự trở thành hiện thực ở thế gian, chính yếu là kết hợp với hội Tam Điểm và các phái Hồng Hoa Thập Tự, lần lượt bị thất bại, chính vì quá nhiều hội viên muốn có kiến thức hay quyền năng cho cá nhân mình hơn là sự giác ngộ, mà chỉ đạt được qua công tác phụng sự nội môn.
Các chân ngã thuộc cung bảy hay cung nghi lễ thường có khuynh hướng, hết kiếp này sang kiếp khác đi vào Hội Tam Điểm hoặc những hoạt động tương tự khác trong thời kỳ đó. Điều này một phần là do sự thôi thúc ham muốn được thành công trong khoa huyền thuật tập thể vô kỷ, và một phần cũng do cảm thức ở nội tâm về sự thất bại trước đây. Các hoạt động của nhóm gồm những thành viên chưa học được cách kiểm soát những ham muốn tình cảm của chính mình hay các mãnh lực được khơi dậy qua nghi lễ, thì tạo lên một dạng nghiệp quả rất tinh vi. Và chính nghiệp quả ấy chỉ được thanh toán qua một nhóm. Vì thế, những linh hồn này được tự động thu hút đến các hoạt động nói trên, để có dịp lặp lại những khuynh hướng thời trước, hoặc sửa đổi các sai lầm của ngày xưa.
Dĩ nhiên, có cách giải thích theo Chiêm tinh cho việc phát triển mới của Hội Theosophia theo những đường hướng của Cung bảy. Sao Mộc, là hành tinh của nghi lễ, đã tiến triển và áp dụng vào mối liên kết của mặt Trời gốc trong cung năm, là cung kết hợp với nghiệp quả của quá khứ theo nghĩa nội môn. Về sau hành tinh này cũng hình thành góc 120 độ thuận lợi ở giữa bầu trời có chứa Song Ngư, là cung thời đại đang đi qua, và đã tạo nên một thời kỳ mở rộng nói chung, đặc biệt là liên quan đến nghi lễ.
Do một sự trùng hợp bất thường, các mãnh lực bao gồm nguyên tố Thủy, cho đến nay vẫn kết hợp với thời đại trước, thì cũng đã được dùng để báo hiệu cho thời đại mới, vì tiến sỹ Annie Besant khi nói đến thời kỳ này đã tuyên bố Krishnamurti là trung gian tiềm năng của Đức Chưởng Giáo Thế Gian.
Về việc những mãnh lực nói trên theo đường hướng cũ và mới khả dĩ xung đột với nhau thì vấn chưa hề được xem xét một cách nghiêm túc. Nói chung người ta hầu như cho rằng theo một lối kỳ lạ nào đó “Rượu mới đã có thể được rót vào bình cũ” mà cuối cùng không có tai hại nào. Làm thế nào mà Krishnamurti với lá số tử vi chủ yếu hướng về tương lai, lại có thể phản ứng với những hoạt động khác nhau của Hội vốn chỉ dựa vào quá khứ, đã là câu hỏi mà chỉ nhà Chiêm tinh học mới có thể trả lời. Mọi người khác thì cứ cho rằng ông dù sao cũng sẽ phát triển một giao huấn hoàn toàn mới và có sức kích thích, trong khi đồng thời không hề phương hại đến chính sách hiện hữu về nghi lễ, mà vào năm 1925, khi mà sự liên kết với sao Mộc mạnh tối đa, đã hoàn toàn thống trị Hội.
Vì lá số tử vi của Hội Theosophia gồm các hành tinh hình thành những trạng thái đối lập và chống đối lẫn nhau từ bốn cung cố định và bốn nguyên tố, do đó tạo ra hình thập tự trên bầu trời, là điểm hết sức thú vị và đặc biệt áp dụng vào chủ đề của quyển sách này. Đó là sự xung đột của các nguyên tố vào những thời kỳ nhất định trong cuộc tiến hóa của con người trên hành tinh này. Lá số này có mãnh lực rất lớn, tất yếu ảnh hưởng đến mỗi cá nhân người môn sinh huyền bí với những mức độ khác nhau khi y gia nhập Hội. Dĩ nhiên là những hậu quả chính xác đến đâu còn tùy theo những khía cạnh chung giữa ngày sinh của y và ngày sinh của Hội có tính thuận lợi hay không.
Ví dụ: Ngày sinh của tiến sỹ Besant Có nhiều phương diện thuận lợi đối với ngày sinh của Hội, vì Mộc tinh và Thiên Vương tinh làm sinh động và tạo hứng khởi cho nhiều hoạt động ở cõi trần qua sự kết hợp của chúng với sao mọc với mid-heaven (Dấu hiệu Thiên đỉnh?), theo thứ tự. Những phương diện này đã giúp Hội mở mang theo ý nghĩa hồng trần, và đồng thời đã kích thích sự phát triển tinh thần của chính tiến sỹ Besant trên mọi cảnh giới.
Trường hợp Krishnamurti thì ngược lại, các hành tinh của ông hoặc là hình thành sự liên kết với thập tự ban đầu từ các cung cố định, do đó làm gia tăng những khó khăn vốn có của nó, hay mặt khác rơi vào cung thứ 12, là cung của việc tự hủy và nội quan. Vì thế nhiều môn sinh của khoa Chiêm tinh không công nhận kết luận rằng tương lai không có khả năng trở thành hiện thực như dự kiến của đa số mọi người. Với những ai thấy rằng không thể giải thích trọn cả tình huống này, thì chỉ có thể đưa ra những lời dẫn giải sau đây.
Sự tăng trưởng tinh thần chỉ có được nhờ việc siêu hóa cái gọi là những khía cạnh tà ác. Con đường huyền bí học không thể được tiến tới qua lá số chỉ gồm những khía cạnh tốt lành, vì chúng có thể tạo điều kiện cho một ngày nghỉ thú vị hoặc thời gian thư thả. Hội Theosophia đã được sáng lập trên sự kết hợp có ý nghĩa này của các hành tinh và các nguyên tố, vì chỉ có sự kết hợp như thế mới đủ mạnh để làm tuôn đổ tất cả nghiệp quả cá nhân từ những tiền kiếp nhằm giúp các hội viên có thể hoàn toàn tự do để làm việc cho các Chân sư trong những kiếp sống tương lai.
Điều này được chứng minh qua sự kiện thực tế là đa số các hành tinh trong lá số ban đầu đều trong cung Hổ cáp, và trong cung của quá khứ các khía cạnh tai hại với những hành tinh thuộc Bảo bình, trên giao điểm của cung này ở tương lai. Cấu hình nói trên cũng hàm ý rằng những phức cảm, các nghi lễ, vấn đề tính dục hay những phương diện khác của thời quá khứ, còn cần được giải quyết bằng những cách khác nhau trước khi mỗi đơn vị trong cơ thể của Hội có thể giao tiếp với những mãnh lực của thời đại mới.
Có những bài báo, dự kiến tinh huống hiện nay được đăng trong tờ The Theosophist trong khoảng từ năm 1920-1925, được viết theo cảm hứng của Chân sư của tôi. Ngài muốn báo trước rằng không lên hoàn toàn bỏ qua hành trình của các ngôi sao. Cũng khoảng thời gian đó, quan điểm mới về phân tâm học, hoàn toàn thuộc về Thiên Vương tinh với tính lãnh đạm tàn nhẫn của nó, đã bắt đầu ảnh hưởng đến giới trí thức của phương Tây. Khoa này, lúc đầu được một vị Thánh sư tạo cảm hứng trong số nhiều hoạt động khác, đã ngày càng trở lên phân tán rộng, ảnh hướng đến nhiều hạng người, nhất là trong thế hệ trẻ, chẳng bao lâu những ý tưởng cơ bản của nó đã được chấp nhận bởi một số đạo sinh, họ bắt đầu chỉ trích các điểm đạo đồ hàng đầu từ góc nhìn tư tưởng mới này.
Những bức thông điệp được cho là có cảm hứng của các Chân sư qua trung gian của vị điểm đạo đồ tiến hóa cao này hay khác, thì không còn được chấp nhận ngay, mà bị chất vấn tơi bời về việc liệu thông điệp ấy đã thực sự phát xuất từ Chân sư hay không, hoặc chỉ là lấy từ những độ sâu của trí tuệ trong tiềm thức của người điểm đạo đồ. Rõ dàng là với sự đe dọa mới này, thẩm quyền nội môn trước đây của Hội đã bị lung lay. Thiên Vương tinh, vì sao hủy diệt, đã mạnh mẽ hoàn tất công việc này, vì không bao giờ các môn sinh trong thời gian hiện nay hoặc về sau tiếp cận với huyền bí học theo cùng lối thuộc về Thổ tinh như những người đã đi trước họ. Vì lúc nào cũng trông nom cả toàn thế giới, nên các vị Thánh Sư thấy rõ rằng những hội viên trẻ trung hơn của Hội đã đáp ứng theo yếu tố Thiên Vương tinh có tính cách mạng, tiềm ẩn trong cung Bảo bình hơn là với yếu tố Thổ tinh. Tương tự, một loại giới luật áp đặt từ bên ngoài, chứ không phát xuất từ nội tâm, thì tất nhiên sẽ không phát triển được những sáng kiến cá nhân, vốn là đặc trưng của Thiên Vương tinh, là ngôi sao chủ của Thời đại Mới.
Sự xung đột này giữa các mãnh lực của Thời đại cũ và mãnh lực của Thời đại mới, rất rõ rệt bên trong Hội Theosophia, thì thậm trí còn hiện rõ hơn ở ngoại giới. Những thế hệ trẻ bày tỏ tính chỉ trích mạnh mẽ và chống lại những truyền thống và lý tưởng của thế hệ trước, dù họ chưa thể phát triển được điều gì có tính tích cực hơn để thay thế. Ảnh hưởng của những người trẻ này hoàn toàn có tinh cách hủy diệt, vì họ đáp ứng với phương diện Shiva trong Thiên Vương tinh, hơn là khía cạnh sáng tạo của nó.
Tóm lại, với sự kết hợp của sao Hỏa và Thiên Vương tinh trong năm 1909 và sau đó, các dòng dĩ thái kết hợp với sự phát triển nội môn của quá khứ bắt đầu phân tán. Khi Thiên Vương tinh đi vào cung Bảo bình để chinh nó, thì thế chiến xảy ra, trước khi có việc củng cố cho địa cầu bởi những dòng dĩ thái vũ trụ đến từ bên ngoài thái dương hệ. Và khi đi vào Song ngư, Thiên Vương tinh đã được dùng để tuôn đổ lên cảnh giới cảm dục cũng chính những mãnh lực dĩ thái vũ trụ này, để bằng cách đó xóa tan mọi điều nào có thể ngăn cản sự khởi đầu của Thời đại Mới.
Mọi cảnh giới của tâm thức hiện nay chịu những ảnh hưởng từ trước còn xa lạ, phát ra từ các nguồn vũ trụ cao siêu, vì thế Chân sư Rakoczi chủ yếu tập trung vào khó khăn trước mắt là bảo vệ các đệ tử của Ngài thoát khỏi các mưu đồ của những Mãnh lực trong Bóng tối. Các Mãnh lực này trước vẫn tiềm ẩn, luôn luôn cố lợi dụng những hiệu quả cách mạng tạo được bởi một số đổi mới trong dĩ thái và những phản ứng tất yếu của chúng đối với yếu tố cảm dục đang thay đổi nhanh chóng.
Ngài hiểu rằng, đối với giới trẻ, toàn bộ sự phân cực trong các thể cao của họ đang thay đổi vì họ vô cùng tự thích ứng với những điều kiện tâm linh mới, trong khi những người cao niên hơn có các thể ổn định hơn, thì thấy không mấy khó khăn khi thực hiện việc thích nghi tương tự. Một số người trong họ cố gắng vận dụng những mãnh lực kết hợp với đường nối cũ về nghi lễ, vẫn còn hoạt động bên trong Hội Theosophia, thì đã ý thức được sự đáp ứng ngày càng giảm khi họ thực hiện một số ghi lễ huyền thuật. Hơn nữa những người vẫn cố làm điều đó, dù đã có cảnh báo ở nội môn, mà họ hiểu sai hoặc hoàn toàn không để ý, thì bắt đầu bị phản ứng trong thân xác, vì thực tế là cõi dĩ thái, vốn trung gian giữa cảnh giới cảm dục và cõi trần, thì cũng đang trong tình trạng xáo trộn như thế.
Vì những thay đổi to lớn nói trên ảnh hưởng đến cõi cảm dục hay là nguyên tố Thủy, lên Chân sư Rakoczi, để bảo vệ các đệ tử của Ngài, cũng như để điều hành tốt hơn một số hoạt động chính trị nhiều ấn tượng của Ngài, lên đã tạm thời rút lên cõi trí. Ngài buộc phải bỏ một số dòng và trung tâm lực ở cấp cảm dục cũng như một số dạng nghi lễ và quyền lực từ, mà trước đây Ngài đã làm sinh động, vì chúng đã bị một tổ chức bí mật khai thác cho những mục tiêu sai trái.
Tổ chức này vẫn chưa thấy thỏa mãn khi cố kiểm soát hoạt động tôn giáo ở phương Tây, mà trong nhiều thế kỷ đã sử dụng và lạm dụng những kiến thức của mình, và kiểm soát các dòng tư tưởng để đi vào lĩnh vực chính trị.[11] Thế là các thành viên của nó liên tục bị Chân sư Rakoczi ngăn trở trong cố gắng của Ngài nhằm cải thiện các luật hiến định và tình trạng chung của châu Âu.
Bất cứ khi nào người đệ tử tiềm năng, dưới cảm hứng nhận được từ các cảnh giới cao siêu, cố gắng chống lại những khuynh hướng ngược chiều tiến hóa trong thời đại của mình, bằng cách mở ra những đường hướng phát triển trí tuệ mới, thì đương nhiên y trở thành tiêu điểm của tư tưởng kết hợp từ tổ chức nói trên, tập chung tìm cách rốt cuộc hủy diệt y.
Điều này hiển nhiên là đúng trong trường hợp của Thái tử (Crown Prince) Ru-dolf của nước Áo. Thí dụ như, ông đã cố gắng cổ xúy cho quan điểm khai sáng nhiều hơn so với quan điểm đang thống trị Triều đình có tính cứng nhắc của nước này. Và khi làm thế, ông đã liên tục bị quấy nhiễu bởi sự can thiệp của những kẻ thù ẩn giấu nói trên. Chỉ điều đó đã có trách nhiệm đến đâu về cái chết thực tế của ông thì vẫn còn chưa ai biết.[12] Thế cũng đủ hiểu rằng, đời sống của ông ở ngoài thân xác, trong nội giới đã được chuẩn bị sao cho trong một kiếp tương lai ông có thể trở thành một người tiền phong của giống dân mới.
Chính vì ông đã hy sinh tham vọng trần gian và chết vì mục tiêu cao cả nhất là tình thương, nên ông trở thành kênh dẫn truyền cho mãnh lực hiếm có phát xuất từ cõi Bồ đề, hay là cảnh giới của bác ái thiêng liêng. Đây là cảnh giới cao cả mà chủng tộc tương lai sẽ nhận được nguồn cảm hứng, để đáp ứng với ảnh hưởng của Hải Vương tinh.
Các Thánh sư của Phong
Bỗng nhiên các hình ảnh biến mất, và tôi lại ý thức được vẻ đẹp của khung cảnh chung quanh mình. Ở bên ngoài, chim đã thôi hót, và mặt trời lên cao trên vùng biển yên tĩnh. Thời tiết dễ chịu, bầu trời rộng bao la, hòa vào những ngọn đồi thấp nhấp nhô vượt trên vùng đầm lầy bằng phẳng ở phai trước, tạo thanh khung cảnh hoản hảo cho những gì mà tôi vừa trải nghiệm. Một chú chim đơn độc ở gần bên bay vụt lên cao, với tiếng hót nhỏ dần cho đến khi nó bay ra ngoài tầm mắt. Tôi bắt đầu thấy những rung động thay đổi. Nhịp điệu trầm tĩnh và vững vàng của Chân sư tôi dần dần hòa vào một loại rung động tinh tế khác cùng với sự xuất hiện của Chân sư Serapis.
Có nhiều Thiên thần không khí tháp tùng Ngài, và bầu không khí dường như rung lên khi các vị đang hiện diện. Tôi cảm nhận hơn là thấy các vị Thiên thần này giống như những cột ánh sáng trắng chói rạng với những dạng hình học xinh đẹp hiếm có, và độ chính xác thuần toán học. Tôi hiểu, họ thuộc về loại Thiên Vương tinh dưới sự điều hành của các Đấng cầm cân Nghiệp quả để phá vỡ những hình thức cũ kỹ, cho các hình thức cao siêu hơn có thể sinh ra trong thời đại mới.
Chân sư Serapis truyền đạt cho tôi hiểu rằng Thời đại Bảo bình sẽ được chia thành ba thời kỳ hay chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài khoảng bảy trăm năm.
Chu kỳ thứ nhất thuộc Thiên Vương tinh, nhất thiết sẽ gồm những thay đổi nhanh chóng với sự hủy diệt đáng kể. Vì thế, vào thời gian này các Thiên thần Cung Một sẽ phải được ưu tiên hơn các Thần cung khác.
Tôi thấy rằng trong vài thế kỷ họ quan tâm vào những hình thức cũ thuộc về nghi lễ sẽ lụi tàn rõ rệt, [13] Đa số chú ý đến những hiện tượng thần thông, nhưng tiếp cận theo quan điểm có tính khoa học hơn ngày nay.
Tôi cũng thấy bằng cách nào mà các Thiên thần của Không khí sẽ ngày càng tích cực trợ giúp con người tạo lập các thể của mình ngày càng đáp ứng tốt hơn với các mãnh lực của Phong, và vì thế có khả năng trực giác nhiều hơn để đón nhận ảnh hưởng của cõi thượng thiên.
Trong thời kỳ thứ hai thuộc về Song tử của Bảo Bình, đội quân tìm đạo của nhân loại sẽ có quyền năng kiểm soát được các mãnh lực của chất dĩ thái đậm đặc hơn. Tôi sẽ bàn về vấn đề này đầy đủ hơn về sau. Tôi nhìn thấy một chủng tộc tốt đẹp đang tiến hóa có khả năng tự ý thức trong các luân xa dĩ thái. Họ dần dần hoàn toàn kiểm soát từng luân xa một, nhưng theo thuyết tự làm sinh động khác với kinh nghiệm của những điểm đạo đồ Giống dân thứ năm đã thực hiện trong những thời đại trước, khi những thuộc tính khác trong tâm thức cần có lối làm sinh động khác hơn.
Trật tự mới này đã được các Thiên thần Cung Một phát khởi dưới sự hướng dẫn của một số Thánh sư ngay sau khi bắt đầu Thời đại Bảo bình. Tuy nhiên, thứ tự này phần nào bị nghi ngờ và thậm chí bị lên án bởi những điểm đạo đồ và nhà nhãn thông cấp thấp. Nghiệp quả xưa và các thể hiện nay của họ khiến họ không thể tiếp xúc với những mãnh lực mới mà tránh được những nguy cơ đáng kể và kundalini của họ đã được đánh thức theo lối cũ.
Ảnh hưởng Thiên Vương tinh hay của Cung Một có được trong mấy thế kỷ đầu đã hủy diệt phương pháp cũ trong cuộc huấn luyện huyền môn và mở màn cho phương pháp mới, Cung Hai có tính êm dịu hơn thuộc về Thủy tinh sẽ đảm nhận việc hướng dẫn cho chu kỳ Song tử. Cuối cùng, tôi thoáng thấy toàn nhân loại có khả năng đáp ứng với ba Cung cao nhất trong chu kỳ phụ cuối cùng của Bảo bình. Bấy giờ cả nam và nữ đều có khả năng hoàn toàn kiểm soát thể giao cảm, cũng như có khả năng sáng tạo với quyền năng tư tưởng trong vật chất dĩ thái thuộc cõi trí.
Trong thời kỳ này, ảnh hưởng và năng lực của âm thanh nói chung sẽ được công nhận. Qua tiếp xúc với tâm thức của Chân sư Serapis , tôi có thể hiểu được phần nào về âm nhạc của thời kỳ xa xăm ấy, với sự kết hợp tinh tế của âm thanh, các âm thứ ba và âm thứ tư, sẽ đòi hỏi phải có khiếu thẩm âm hoàn toàn mới về âm nhạc.[14] Tuy nhiên trong vài khía cạnh tôi lại thấy rằng loại âm nhạc này của tương lai lại giống với loại nhạc cao cấp nhất của Ấn Độ cổ đại, ở chỗ nó có khuynh hướng giai thoát các thể cao ra khỏi những giới hạn của cõi trần.
Sau đó tôi có hiểu biết chung về luật huyền môn, kết hợp với năng lực của âm thanh, sẽ giúp Thời đại Bảo bình hòa nhập với thời kỳ Ma Kết một cách hài hòa hơn là thời gian chuyển tiếp hiện nay.
Khi tôi nhận thức được điều này, các hình ảnh mờ nhạt, nhưng khi Chân sư Serapis sắp từ giã tôi, Ngài nhấn mạnh sự kiện là mọi người nam và nữ ngày nay chỉ có thể hy vọng đáp ứng về mặt thể chất với các mãnh lực cao siêu của Thời đại Mới nếu các thể của họ đáp ứng được với nguyên tố Phong, và ít có hay không có số nghiệp quả nào sẽ được giải tỏa qua các nguyên tố kia.
Khi quán tưởng về mức độ tương đối dễ dàng mà Thời đại Bảo bình sẽ hòa nhập vào Thời đại Ma Kết, là Cung luôn kết hợp với Ấn Độ và các truyền thống huyền môn cổ xưa của nước này, khiến tư tưởng của tôi quay về với hiện tại. Tôi hiểu rằng vị thế này đã đảo ngược theo nhiều lối chứ không chỉ một, vì ngày nay do ảnh hưởng của Bảo Bình ngày càng gia tăng, người đạo sinh trung bình sẽ thấy không thể nào duy trì được các truyền thống của Ma Kết.
Sự xung đột lý thú này giữa hai cung kể trên có thể thấy phân ánh trong lá số tử vi tiến triển của Hội Theosophia (Thần triết). Năm 1909 Mặt Trời trong lá số này tiến lên để đi vào Ma Kết phối hợp với cung cơ bản ở giữa bầu trời theo ngày sinh của tiến sỹ Besant”s. Với tư cách Hội trưởng, bà đã lập Adyar tổng hành dinh của bà và đã khám phá ra một trẻ trai người Ấn với tư cách là trung gian của Đức Chưởng giao trong tương lai. Từ đó trở đi, Hội Theosophia đã đi vào một chu kỳ nhỏ ba mươi năm của Ma Kết, trong đó Ấn Độ tiếp tục là nước mà mọi hội viên đều hướng đến để tìm nguồn hứng khởi.
Trong khoảng năm 1937 và 1938, Mặt Trăng tăng tiến trong lá số của hội sẽ ảnh hưởng xấu đến Hỏa tinh, Thổ tinh, và Thiên Vương tinh theo thứ tự. Dĩ nhiên là những năm này có rất nhiều căng thẳng, báo hiệu cho chu kỳ ba mươi năm tiếp theo, trong đó Mặt Trời tiến lên đi vào Bảo Bình, và toàn hội sẽ đáp ứng nhiều hơn với cung này của Thời đại Mới. Khi nói rằng thời gian này hết sức khó khăn vì thực tế là Mặt Trời tiến lên và quấy rối cả Mặt Trăng và Thủy Vương tinh ở cấp cơ bản khi nó đi vào cung Bảo Bình.
Mặt Trăng, chủ của cung Mọc là Cự Giải trong lá số cơ bản, có ảnh hưởng rất quan trọng trong toàn biểu đồ. Lên mỗi lần nó tiến lên qua một trong các điểm của thập tự gồm các cung cố định vốn tạo lên ngày sinh ban đầu, thì nó đều làm tuôn đổ một cuộc khủng hoảng nào đó trong Hội.
Chúng ta hãy nêu nên một vài ví dụ đáng lưu ý nhất. Lần đầu tiên Mặt Trăng tiến lên đi ngang qua Hổ Cáp và khía cạnh xấu đối với Hỏa tinh, Thổ tinh và Thiên Vương tinh theo thứ tự, thì vụ tai tiếng của Coulomb xảy ra, dính líu đến Bà Blavatsky, lý do là vì Mặt Trăng cũng có ảnh hưởng xấu đến các hành tinh cơ bản của bà trong cung Mãnh Sư và Bảo Bình.
Trong khi Mặt Trăng tân tiến trong Ma kết và với phương diện tốt lành của Mặt Trời cơ bản, Phân bộ Bí giao đã được thành lập. Tuy nhiên trong thời gian nó thuộc về Bảo Bình, một lần nữa khía cạnh xấu đối với Thủy tinh, Mộc tinh, Thiên Vương tinh và Mặt Trời theo thứ tự, khiến sảy ra việc ông Judge từ bỏ hội.
Lần kế tiếp việc nó đi vào Hổ Cáp sẽ trùng hợp với nhiều vụ kiện liên quan đến quyền giám hộ Krishnamurti.
Lần thứ hai khi đi qua Bảo Bình, nó tạo thêm khó khăn, nhưng lần này là cuộc tranh cãi phát sinh liên quan đến Giáo Hội Công giáo Tự do.
Trong khi năm 1931, bấy giờ Mặt trăng tiến lên kết hợp với Thiên Vương tinh, trong cung Mãnh sư (Sư tử) ở tâm và chính xác đối lại với cung mọc cơ bản của Krishnamurti và Thổ tinh cơ bản thuộc ngày sinh của Hội, nó buộc hội phải đối diện một cuộc thử thách liên quan đến niềm tin và các Chân sư. Khỏi phải nói, niềm tin này là viên đá tảng của toàn tổ chức.
Vậy có thể dự kiến điều gì khi Mặt trời cũng hình thành những khía cạnh mạnh mẽ đối với các hanh tinh cơ bản trong những cung cố định vào các năm 1938-1941, 1944-1946, 1954-1956, 1957-1959 và 1962-1964? Chắc rằng những năm này sẽ được dùng để cho Hội Theosophia những giao huấn mới của Bảo Bình. Vì Bảo bình chế ngự các cung cơ bản thứ tám và thứ chín, là các cung của huyền bí học?
Tôi dám tiên đoán rằng trong các năm kể trên sẽ có phát triển một phương pháp mới của nội môn tiếp cận được những vẫn đề của thời trước, nhất là liên quan đến cung Hổ cáp, và tất nhiên sẽ có thêm những thử thách và thích nghi của các hội viên trong thời gian đó.
Đến đây tôi ý thức được sự rung động tinh tế do sự hiện diện của Chân sư Koot Hoomi. Bao trùm tôi trong hào quang đầy tình thương của Ngài, một lần nữa Ngài cho tôi cái ấn tượng rằng, thời kỳ này trong Hội Theosophia mà tôi vừa tiên đoán theo chiêm tinh, phải được xem xét theo lập trường của các Thánh sư. Phải xem nó không chỉ là một thời gian có nhiều xung đột và thử thách, mà còn có nhiều cơ hội vinh quang dành cho mỗi cá nhân để họ đối diện với những giới hạn và trở ngại trong tâm tính của minh, nhằm khắc phục và loại trừ các khuynh hướng bất hảo, siêu hóa những năng lực bị sử dụng sai lầm một cách tình cờ trong quá khứ, thành năng lực Yêu thương mà không bao giờ lại bị đưa vào những mục đích xấu xa…. Tóm lại, nó thiêu đốt tất cả những cặn bã trong phàm tính để bản tính cao siêu có thể xuất lộ không trở ngại, một cách thành công và hoan hỷ…
Khỏi phải nói phương cách siêu hóa này không thể thực hiện hay thậm trí kích động mà không phải đau khổ. Khả dĩ có một số người gục ngã trên đường. Thế nhưng những ai có can đảm chịu đựng, chiến đấu và nhất là đối diện với chính mình, thì có thể an tâm thấy rằng không phút giây nào họ bị bỏ rơi cho chiến đấu một minh. Dù bề ngoài có vẻ tối tăm và đơn độc, mọi bước tiến và mọi nỗ lực của họ đều được ghi nhận bởi những Đấng đang trông nom họ, nhưng về mặt nghiệp quả các Ngài không được phép can thiệp, và không bất cứ trường hợp nào can thiệp vào việc của họ. Vì các Ngài biết rằng chỉ có sự phấn đấu kiên trì của mỗi cá nhân thì y mới có thể đạt được sự tăng trưởng tinh thần, đó mới chính là vinh quang cho cố gắng của y.
Tuy nhiên, vì các Ngài nhận thức rằng những vấn đề của Thời đại Mới đều đặc biệt phức tạp, lên các Ngài có thể thực hiện sự phân cực mãnh lực tinh thần theo lối khác trên mọi cảnh giới, lên các Đấng Cầm cân Nghiệp quả cũng cho phép một mức độ trợ giúp nào đó từ bên ngoài.
Thế nên Chân sư Koot Hoomi và vị huynh đệ của Ngài là Chân sư His Brother Morya sẽ thực hiện ở nội giới việc hy sinh bằng cách đồng nhất một số thể ý thức của các Ngài với những thể của các đệ tử tiến hóa cao. Những người này trong thời gian ba mươi năm nói trên, sẽ cố gắng phát triển một cầu nối mới giữa các Thánh sư và thế giới bên ngoài.
Tôi được pháp cho thấy đôi điều về cố gắng hy sinh to lớn này của các Thánh sư sẽ như thế nào. Tôi nhận thức rằng dù trước đây, theo chế độ của cung Ma kết, đôi khi Chân sư cũng ảnh hưởng lên người đệ tử, để bằng cách đó nâng cao tâm thức của y lên tâm thức của Ngài, tùy theo phương pháp của Bảo bình Chân sư sẽ giữ cùng nhịp rung động với rung động của người đệ tử và tự đồng nhất với tâm thức của y, để bấy giờ cùng chịu những giới hạn đó. Phương thức này giúp các Thánh sư tiếp xúc với những điều kiện hiện nay qua những người trung gian hiện nay, việc kích thích việc nghiên cứu những vấn đề hiện nay theo góc độ của thời gian hiện nay. Bằng cách đó, Hội Theosophia với vai trò lãnh đạo mang cảm hứng nói trên, một lần nữa lại đóng vai trò tiền phong trong nghiên cứu về tâm lý.
Bấy giờ, rõ ràng là toàn hội sẽ được nâng cao từ nguyên tố Thủy hay tình cảm lên nguyên tố Phong, kết hợp với cõi trí, và tất cả các hoạt động với tinh cách nghệ thuật và trí tuệ.
Bằng cách áp dụng phương pháp đồng nhất tâm lý nói trên với các đệ tử của mình, hai vị Thánh sư cao cả này sẽ có thể trải nghiệm thêm các ảnh hưởng của Hải Vương Tinh và Thiên vương tinh trong một số thể thanh của mình.[15] Những hành tinh này sẽ chi phối tương lai phát triển của Hội và hầu như bắt đầu gia tăng mãnh lực trên mọi cảnh giới sinh hoạt của con người. Sự kiện thực tế về cung thứ chín, cung của thượng trí, chịu chi phối bởi Bảo Bình và Song Ngư, là một xác nhận khác cho lời khẳng định này, vì hai cung vừa kể có nhiều ái lực với Thiên Vương tinh và hải Vương tinh hơn bất cứ hanh tinh nào khác.
Thế là qua lỗ lực tinh thần vĩ đại trên tất cả các cảnh giới, hai nguyên tố Thủy và Phong, hay nói cách khác là tình cảm và trí tuệ, sẽ được tổng hợp bằng cách tiếp xúc và hài hòa các rung động của Hải Vương tinh và Thiên Vương tinh, rất tương tự trong chuyển động ngược lại với Mặt Trăng của chúng, dù trong tất cả các khía cạnh khác chúng lại rất khác biệt và với tất cả các hành tinh khác trong thái dương hệ.
Như trong lá số của Hội, hai hành tinh huyền bí này, cùng với Mặt trăng, đều đi lên, trong khi các hành tinh khác lặn xuống. Vị thế đó chỉ có thể cho thấy rằng các hành tinh đang lên sẽ chi phối các ảnh hưởng của tương lai, trong khi các hành tinh kia tất nhiên phải là các lực hạn chế của quá khứ.
Các ảnh hưởng của tương lai gồm việc nghiên cứu một nguyên tố không phải là Thủy và Phong, vì Hải Vương tinh vẫn còn phạm vi lửa của cung Bạch dương, trong khi Mặt trăng và Thiên Vương tinh ở trong trung tâm lửa của cung Mãnh sư.
Điều chính yếu của lá số này nằm trong nguyên tố cao nhất của Tứ Đại, tức là Hỏa, giống như con đường đi đến các Chân sư.
Chân sư của tôi nói lên ý nghĩa ẩn tàng của Mặt trăng, chi phối cung mọc, đi qua từ cung Cự giải thuộc Thủy vào cung Mãnh sư thuộc Hỏa, khi Ngài nói về các đệ tử tiềm năng sẽ giao tiếp với sư huynh His Brother Morya của Ngài.
“ Những linh hồn cao cả có khả năng chế ngự và siêu hóa mọi ham muốn, mọi xúc cảm, để đạt được một ý tưởng cao đẹp, thì đáp ứng với rung động cao độ của Hỏa tinh[16]. Toàn bộ hệ giao cảm của họ được phân cực đến trung tâm bên trong luân xa tim, để đáp lại sự kêu gọi phụng sự. Thể cảm dục được nâng lên đến cõi bồ đề qua ngọn lửa siêu hóa của hành động vô kỷ. Những chiến sỹ và những nhà tổ chức cao cả thường đi theo đường lối này, và qua sự tự hy sinh họ trở thành đệ tử của sư huynh Brother Morya của ta. Hãy tham thiền về Ngài nếu con muốn hiểu phần nào những mục tiêu to lớn mà Ngài mãi mãi tìm cách mang hứng khởi đến cho những người có trí tuệ hàng đầu hiện nay.”[17]
Các Thánh Sư Của Hỏa
Chân sư của tôi giờ đây cho tôi thấy hình ảnh của các trung tâm thuộc luân xa tim, vốn tương quan với những trung tâm khác trong thể xác. Tôi hiểu rằng, khi nguyên tố Hỏa thống trị lá số tử vi, và do đó cũng ở trong luân xa tim, thì bấy giờ nó biểu hiện thành sự tự hy sinh, và bốc lên giống như cách của lửa, đến luân xa đầu, vốn chịu chi phối của Hỏa tinh trong cung Bạch dương. Thế nhưng nếu nguyên tố nước hay tình cảm thống trị ngày sinh, thì lực này được kết hợp với Hổ cáp, cũng ở dưới sự chế ngự của Hỏa tinh, nhưng đi xuống và biểu lộ thành năng lực tình dục.
Vì thế nguyên tố nước trong nội giới có khuynh hướng dập tắt lửa, cũng giống như ở cõi trần. Nói ngắn gọn, cuộc chiến của linh hồn là giữa việc nâng tâm thức lên lửa tinh thần tức là bồ đề, hay là vẫn ở trong thế giới của dục vọng hay thuộc Thủy, và chịu rằng buộc bởi vô số lực xung đột ở đó.
Tôi cũng được cho thấy rằng những ai có đa số hành tinh thuộc các cung Thủy thì thường có cơ hội siêu hóa tính chất dục vọng và nâng nó đến bồ đề hay là nguyên tố Hỏa, nhờ lá số tiến triển. Nhờ đó các hành tinh rời Song ngư để đến Bạch dương; Rời Hổ cáp để đến Nhân mã; Hoặc rời Cự giải để đến Mãnh sư, tùy trường hợp. Hành động siêu hóa này khó hay dễ, tùy vào vị trí của các cung thuộc Thủy trong hình cơ bản, vì để có thể thực hiện, họ cần đi vào các cung trí tuệ hơn là tình cảm, hoặc những cung kết hợp với công tác tích cực.
Chân sư của tôi cho biết rằng Chân sư Morya là đại diện cao cả nhất của nguyên tố Hỏa, và Ngài đã tái sinh liên tục với tư cách đàn ông qua cung Bạch dương, với chỉ một mục tiêu nhắm đến, là trợ giúp nhân loại. Tôi được cho thấy rằng Ngài xem thường những nguyên tố dưới và tập trung năng lượng của Ngài hoàn toàn vào điểm chế ngự nguyên tố Hỏa.
Phẩm tính cao siêu của Bạch dương là lòng bác ái tuôn tràn đến cho tất cả của vị Thánh sư vĩ đại này biểu lộ qua nhiều lối khách nhau và qua nhiều đệ tử, mà phần đông trong thể xác họ hoàn toàn không biết được nguồn của cảm hứng nơi mình. Những đệ tử đó thừơng có nguyên tố Hỏa thống trị lá số, nhưng trong các cung đưa đến phát triển huyền môn ở nội giới hơn là ở cõi trần. Những loại công việc này tác dụng cho người đang hoạt động chính yếu bằng nguyên tố Thủy, vốn mâu thuẫn với Hỏa, thì chỉ mang lại tai họa, vì hoạt động của họ sẽ bị chìm ngập hay vô hiệu bằng cách này hay cách khác.
Tuy nhiên có một số đệ tử nhờ nghiệp quả mà có quyền được huấn luyện trong thể xác, và ta hiểu rằng để thử thách chính yếu là áp dụng qua nguyên tố Hỏa, dù khi họ ở ngoài thân xác. Một số đệ tử thuộc Cung Một này cũng có cung Bạch dương mạnh trong lá số của họ, trong khi những đệ tử khác lại biểu lộ tốt hơn qua Mãnh sư.
Chính trong thời gian kết hợp của Mặt trăng tiến triển với Thiên Vương tinh cơ bản trong cung Mãnh sư vào năm 1931, chính xác đối lập với cung mọc của Krishnamurti, mà sự thử thách qua nguyên tố Hỏa và cung Mãnh sư thuộc tâm – tức là sự thách thức niềm tin vào các Chân sư – đã được áp dụng cho toàn Hội. Krishnamurti thiếu nguyên tố Hỏa và cố gắng giải thích nguyên tố Phong và yếu tố bảo vệ mà hoàn toàn loại trừ các yếu tố khác, thì đương nhiên là trung gian tuyệt vời cho thử thách này. Và đối với người cố gắng tập chung vào việc đạt được sự tự thức cũng như năng lực tự đứng vững qua cung Bảo bình, tức là hoạt động hướng ngoại của Mãnh sư, cung đối lập, thì chừng như chỉ hoàn toàn phí thời gian.
Như Chân sư Koot Hoomi có nói trong quyển sách trước đây của tôi
“ Tác động và phản ứng thì tương xứng và đối lập nhau, lên tất nhiên thời gian trước với những hoạt động tích cực của bên ngoài, [18] cố gắng tuyên truyền và tin tưởng mù quáng vào những thẩm quyền đã được thiết lập, thì sẽ tiếp theo là một thời gian nghi ngờ và thắc mắc mọi thẩm quyền … Sự co rút luôn luôn theo sau sự bành chướng, trong thế giới huyền bí cũng như ở cõi trần ….. Giáo huấn của Krishnamurti có tác động phù hợp với luật chu kỳ vì tạo nên sự co rút sau một thời gian bành trướng mà đã làm cạn khiệt sức mạnh của xung lực ban đầu của thế kỷ trước.”
Từ điều này chúng ta thấy rõ rằng cho dù những hoạt động được phát khởi do nguyên tố Hỏa, từ trước đến nay được tiến sỹ Besant tạo hứng khởi một cách tốt đẹp, thì cũng không thể tiếp tục vô thời hạn, đồng thời các mãnh lực kết hợp với cung Mãnh sư cũng phải có tính chất tinh tế hơn, dẫn đến năng lực mới thuộc về trực giác để cá nhân có thể giao tiếp với Chân sư hơn là qua phương pháp gián tiếp.
Khả năng tiến triển từ một nguyên tố thành một nguyên tố khác, mà tôi đã nói đến trước đây, thường được minh họa trong lá số của Hội, trong đó Hỏa tinh chẳng bao lâu đã rời Song ngư để đến Bạch dương và còn ở đó cho đến năm 1975. Sự tiến triển này cho thấy khả năng mở rộng đối với người thuộc cung một, cũng như chỉ rõ con đường giải thoát khỏi thập tự cố định của dục vọng, qua nguyên tố Hỏa của phụng sự.
Giống như sư huynh His Brother Koot Hoomi của mình, Chân sư Morya đã nhận thức được sự tất yếu phải tiếp cận các vẫn đề của hiện nay từ góc độ hiện nay, nhưng Ngài sẽ tiếp tục chuyên về nguyên tố Hỏa, trong khi sư huynh của Ngài His Brother sẽ chính yếu biểu lộ qua nguyên tố Phong.
Khi diễn tiến sự phát triển này, Ngài đã đưa ra một dạng Yoga mới qua một đệ tử, được biết nhiều trong giới nghệ thuật, nhưng thích ẩn danh về phương diện này.
Tôi đã đọc qua quyển sách nói trên vào một thời điểm sau khi sách của tôi được xuất bản và thấy nó là sự xác nhận thú vị về những gì tôi đã được Chân sư của mình cho biết liên quan đến phương pháp huấn luyện của Thánh sư Adept Morya”s cao cả. Quyển sách có tên là Agni Yoga gồm có những câu châm ngôn, cần được đọc đi đọc lại nhiều lần trước khi ta có thể hoàn toàn hiểu được ý nghĩa thâm sâu của nó.
Được chuyển dịch từ bản gốc tiếng Bắc Phạn và Sensa, cách câu này không có sẵn từ tương đương trong tiếng Anh. Tuy nhiên, rải rác cũng có một số câu bàn về việc chế ngự nguyên tố Hỏa thì dễ hiểu, và tôi thử trích dẫn một số câu đáng lưu ý nhất để giúp ích cho những ai đang phát triển theo cung một.
Đối với người chưa hiểu biết, thì việc tiếp xúc với các nguyên tố dường như là câu chuyện thần tiên. Thế nhưng bạn đã biết rằng các nguyên tố được hấp dẫn vào đời sống thực tế của mọi người thường xuyên đến đâu.
Chúng ta hãy xem đâu là những điểm tương đồng và khác biệt giữa Agni Yoga và các Yoga có trước nó. Karma Yoga gấp có nhiều tương đồng, khi nó tác động với nguyên tố địa. Nhưng khi Agni Yoga chế ngự con đường nhận thức các thế giới xa xăm, thì sự khác biệt trở lên rõ ràng. Raja Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga tất cả đều riêng biệt với thực tế chung quanh chúng, và vì thế không thể đi vào cuộc tiến hóa của tương lai.
Bạn có thể hỏi tôi những bài tập thể dục nào là hữu ích trong Agni Yoga. Tôi khuyên áp dụng bài tập ngắn về hơi thở vào buổi sáng, không quá năm phút. Hành giả cần kiêng thịt, chỉ trừ thịt xông khói. Rau, quả, sữa và ngũ cốc luôn luôn được chấp nhận. Tất cả các loại rượu đều không được dùng, chỉ trừ để chữa bệnh.
Tôi khuyên tránh mang dày dép cao su và đi bộ vào buổi sáng, tránh hút thuốc.
Tôi nói về nguyên tố Hỏa thực sự đang hiện hữu. Không phải lần đầu tiên mà hành tinh này bị tác động bởi nguyên tố Hỏa. Trong mỗi lần thay đổi các giống dân, thì Hỏa lại đến như một dòng thanh tẩy.
Điều chính yếu là không lên nói với những người mới học rằng giao huấn của Agni Yoga thì dễ hiểu. Thực sự nó không dễ chút nào. Có nhiều căng thẳng và nguy hiểm trong đó…. Chế ngự được nguyên tố Hỏa là một tiến trình chậm chạp. Mỗi sự vội vã không chín chắn đều đe dọa đốt cháy hành giả….
Một số ít các vị thần kiến tạo được tín nhiệm, chịu giữ giới luật và chấp nhận các ý tưởng đi vào không gian của luân xa tim. Họ không sợ bị đốt cháy do lửa của các thế giới xa xăm.
Từ đâu mà có việc áp dụng và tác động của lửa kundalini? Chính là từ nguồn lửa yêu thương…
Tôi rất thích loại lửa này vì khi lửa yêu thương chói rạng, thì hành giả có thể vượt qua mọi chướng ngại.
Chúng ta có thể nhớ rằng những kẻ thù của chúng ta tận dụng mỗi sự rối loạn trong không gian và cố tạo ra những diễn biến bất hảo. Sự kết hợp này của các điều kiện thể chất và tâm lý đều cần được lưu ý. Dĩ nhiên, những người có nguyên tố Hỏa thì không dễ sống trong thân xác. Nhưng hãy chọn những người đó để cộng sự vì họ không hề phản bội. Nguy hiểm cũng không làm họ rối trí. Họ hiểu bổn phận của mình, và lỗ lực vươn lên như ngọn lửa ….
Mọi người khó hiểu được các cung của nguyên tố này. Địa, Thủy, Phong đều dễ thấy. Nhưng việc Hỏa xuyên qua Thủy thì dường như khó hiểu. Nhưng chúng ta phải hiểu thế nào là sự xuyên thấu của Hỏa. Nếu không chúng ta không đi vào được các cánh cửa của hỏa.
Theo câu châm ngôn cuối cùng này thì dường như những người thuộc Hỏa không lên làm việc kết hợp với những ai có yếu tố Thủy chế ngự. Càng nghiên cứu về chiêm tinh chúng ta càng đồng thời hiểu biết rõ ràng về các nguyên tố, và dù một nhóm nhỏ các đạo sinh cũng phải cần hiểu mới có thể thành công. Người ta sẽ nhận thức rằng chỉ những ai có ảnh hưởng hành tinh tương tự nhau hay bổ xung lẫn nhau thì mới nên làm việc cùng nhau. Ngoài ra khi tìm cách hình thành một nhóm không xác định gồm bốn nguyên tố không xác định, thì tất cả ít nhiều gì cũng gây trở ngại cho nhau, đồng thời không những hoài công vô ích mà thường còn gây tai họa.
Cả quyển sách này trừng như tỏa ra bầu hào quang bằng lửa, nên hầu như không thể đọc nó liên tục. Bên trong sự nhiệt thành mãi mãi trẻ trung của Chân sư Morya, dường như chúng ta cảm được một loạt các cuộc phiêu lưu mạo hiểm trong thế giới huyền bí, gồm những rủi ro rất lớn về tinh thần, rõ ràng tất cả đã được kết hợp khi có Thiên Vương tinh và Hải Vương tinh bên trong giới hạn của Thái dương hệ chúng ta. Trong sách thường đề cập đến những thế giới xa xăm, và sự cần thiết phải đưa vào tâm thức của mỗi chúng ta sự cảm nhận thường xuyên về không gian là chất liệu sống động. Điều này cho thấy ngay cả hiện nay Ngài cũng đang tạo sự tương quan giữa dĩ thái vũ trụ với dĩ thái hồng trần trên hành tinh chúng ta. Ngoài ra Ngài cũng đang thực hiện một loại đồng nhất tâm lý tương tự như cách của sư huynh Ngài là Đức His Brother Koot Hoomi, như phần trích dẫn dưới đây chứng tỏ:
Khi nhà Yogi được giải thoát, thể thanh của y đến viếng những cảnh giới khác nhau. Bay lượn trong không gian và đi vào những độ sâu của các hành tinh đều dễ dàng…. Nhận thức đó cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần. Nỗ lực hướng đến hoàn thiện vì nhận thức được sự bất toàn.
Những thí nghiệm phức tạp và quả cảm của hai vị Thánh sư huynh đệ này trực tiếp liên quan đến công việc của các Ngài với chức vụ tương lai là Đức Bàn cổ và Đức Bồ tát của giống dân sắp tới.
Thử thách gay go kế tiếp qua cung Mãnh sư thuộc về tâm dành cho Hội, lặp lại lần thử thách của năm 1931, sẽ xảy ra khi mặt trăng tiến lên và một lần nữa kết hợp với Thiên Vương tinh cơ bản, ở vị trí đối lập với Hỏa tinh và Thổ tinh cơ bản. Đồng thời khi mặt trời tiến lên, nó cũng kết hợp với Thổ tinh cơ bản. Sự kết hợp các khía cạnh này sẽ xảy ra vào năm 1958. Không lâu sau đó, Mộc tinh tiến lên sẽ đi vào cung Nhân mã của nó, theo phương diện thuận lợi đối với Mặt trăng cơ bản, cho phối cung mọc, và điều này sẽ kéo dài cho đến năm 2032.
Vào thời gian nào đó trong gia đoạn này, một lần nữa một vị điểm đạo đồ tiên tiến và Chân sư Rakoczi sẽ hợp tác để mở đầu một dạng mới về nghi lễ, nhưng lần này kết hợp với nguyên tố Hỏa thay vì Thủy. [19] Cố gắng này sẽ gồm sự hợp tác của các Hỏa Thiên thần, và chỉ những ai có các thể thanh khiết đúng mức mới có thể trở thành kênh dẫn truyền trực tiếp cho mãnh lực Hỏa năng này, mới có thể làm lễ. Nhờ hệ giao cảm mạnh mẽ, họ sẽ đưa mãnh lực Thiên thần xuống đến những người không thể tự mình tiếp xúc với cấp độ rung động cao đến thế. Đồng thời họ cũng tạo một vùng xoáy để qua đó Chân sư Rakoczi có thể đưa nguyện vọng của cả nhóm hướng thượng qua nguyên tố Hỏa. Trong thời đại này nhiều môn sinh sẽ trở lại cõi trần qua cung Nhân mã thuộc về Lửa và nhiều biến đổi, vì cung này cho họ trang bị tốt hơn để hợp tác với các Thiên thần, hơn là cung Bạch dương hoặc Mãnh sư.
Những ai có thể xác định được mười hai mẫu người của Hoàng đạo, đều thấy rõ rằng đa số thế hệ trẻ đều đang nhập thế qua cung Nhân mã, dù họ chưa có thể đáp ứng với rung động cao của nó, vốn tạo ra nguyện vọng mãnh liệt nhằm hòa hợp ý chí cá nhân với ý chí của Thượng đế. Hầu hết những người thuộc cung Nhân mã hiện nay, được ban cho dồi dào sinh lực và vô số cơ hội để biểu lộ tài năng thể chất, lại bị choáng ngợp với năng lực của mình và sử dụng sai những món quà quí giá ấy khi buông thả quá độ lỗi khao khát điên rồ về những cuộc thử thách tốc độ trên đất liền, trên biển và trong không gian.
Tương tự, không thấy được sự thực trong bất cứ điều gì, lên họ chế nhạo mọi điều chân lý. Các lý tưởng làm bia cho họ đùa cợt, và vì cảm thấy rằng không điều gì là đáng kể, họ lao vào cuộc ganh đua tốc độ, một cách hứng thú và cười đùa liên tục. Thế nhưng ngay cả các trắc nghiệm và tốc độ cũng có giới hạn, và nếu đã được thực hiện bởi đủ số người, thì không còn được xem là đáng kể nữa. Tương tự, việc không ngớt chế nhạo và đùa cợt rồi cũng buồn chán, và cái trí tất phải quay vào nội tâm, và bị buộc phải tìm kiếm một ý nghĩa nào đó ẩn trong cuộc hiện tồn. Bấy giờ việc tìm kiếm những điều thiêng liêng rốt cuộc thay thế cho việc tìm cảm giác.
Thế là phương diện cao của Nhân mã sẽ đi vào hoạt động, và dần dần những người đã từng đi tiền phong gan dạ trong cuộc ganh đua tốc độ ở cõi trần, sẽ cũng trở thành những người tiền phong dũng cảm trên các lĩnh vực không thuộc về hồng trần.
Trong tinh thần và trong tư tưởng họ xông pha đến những phạm vi xa xăm của không gian, chính sự liều lĩnh của họ được siêu hóa thành lòng can đảm, không hề e ngại những cuộc thí nghiệm táo bạo nhất ở cấp vũ trụ, lòng mạo hiểm của họ được tôi luyện thành loại vũ khí sáng ngời để phụng sự Chân sư. Những con người không hề sợ hãi dám chơi đùa với lửa và đôi bị bị bỏng, thì sẽ học cách chế ngự và sử dụng mãnh lực thánh thiện đó để mang lại lợi ích cho huynh đệ của mình. Khi thoát ra khỏi những ức chế quy ước và truyền thống sẽ khiến họ đương nhiên được hấp dẫn đến với các Thiên thần, và giúp họ có thể hòa hợp năng lượng tuôn tràn của mình với những mãnh lực cường liệt của họ trong vô số những hoạt động sáng tạo.
Theo lối này, những người thuộc cung Nhân mã trong tương lai, dưới sự hướng dẫn của một số Thánh sư và đệ tử của các Ngài, thực sự là có vận mệnh trở thành người tiền phong, và trở nên cầu nối thực sự đầu tiên giữa yếu tố Thiên thần và con người bên trong Thái dương hệ chúng ta. Trong quyển sách của H. K. Challoner’s, Những vị Trông nom Bảy Bầu Thế Giới [20], thường nói đến nhiều điều rất hay về công tác này của nhân loại kết hợp với các Thiên thần.
“ … Vào thời điểm xa xăm ấy những người tiến hóa nhất trong nhân loại của Giống Dân Thứ Sáu sẽ siêu hóa tính dục, chế ngự tình cảm và đốt sạch mọi ham muốn tạm thời;
Khi mục tiêu cao siêu này đã đạt, họ sẽ được dạy cách sử dụng quyền năng của thể trí để kiến tạo các thể cho con cái mình;
Và kết hợp trong những con người cao đẹp này những phẩm tính tốt đẹp của mỗi giới, tính yêu thanh khiết, trực giác, ý chí chuyên nhất và mạnh mẽ, minh triết và hoạt động là những bí mật của sáng tạo. Nhờ thế chính họ có thể kiến tạo qua âm thanh, màu sắc và hình thể.
Bạn có phải chờ đợi lâu để thấy được điều này không? Nhưng ngay cả hiện nay, với người có mắt thấy được, thì những dấu hiệu thoáng qua đầu tiên của thời điểm xa xăm đầy triển vọng đó vẫn đang dần biểu hiện, vì những vị thần tốt lành đang đưa nhân loại tiến đến mục tiêu này.
Những tia chớp ngắn ngủi từ buổi bình minh sáng chói này được chiếu rọi vào trí tuệ của những ai có khả năng tưởng tượng – với đôi cánh của ước vọng bừng cháy muốn trợ giúp thế gian, trong giây phút xuất thần nâng họ lên lĩnh vực thực hiện Thiên ý, nơi không hề có thời gian và người ta có thể thấy được lúc chung cuộc; Họ muốn trao vào tay ngọn đuốc sáng rực lửa thiêng, như ngôi Mặt trời chói rạng.
Chính họ, những người với mũi tên rực lửa, ta đã ghi dấu là sứ giả của ta, để hướng dẫn con người qua những bước đi ngập ngừng do dự hướng về ánh sáng. Chính họ, những người tiền đạo của thời đại mới, với tầm mắt nhìn vào nhãn quang của ta, có tai nghe được tiếng nói của ta, sẽ giúp huynh đệ của mình tiến lên trên triều sóng tiến hóa tuôn trào vĩ đại.
Để làm người hoa tiêu và ngôi sao dẫn đường, giúp họ mãi mãi đi lên hướng về những đỉnh cao linh thánh, ngọn Linh sơn, nơi ra đời của giống dân mới, nơi con người với tầm mắt rộng mở, cuối cùng thấy chính mình được biến dung (Điểm đạo thứ ba), trong nguồn vinh quang, không còn là chính mình, mà hòa hợp nhất với Toàn thể.”
Các Thánh sư của Dĩ Thái
Đã là khó khi phân tích tứ đại Địa, Thủy, Phong, Hỏa trong mối liên hệ tinh thần và tâm linh của chúng với con người, thì nay thậm chí còn khó hơn khi phân tích dĩ thái trong mối liên quan tương tự. Vì trong trường hợp đầu chúng ta có các cung hoàng đạo và tất cả những kết hợp của chúng để làm tiêu điểm cho tứ đại, nhưng với dĩ thái thì chưa có dấu hiệu nào được công nhận là những điểm hướng dẫn, ngoài một số lý thuyết được các nhà huyền bí học Ấn Độ chấp nhận rằng nó có bốn phân cấp, tương quan với tứ đại, và với bốn cảnh giới, cõi trần, cõi cảm dục, cõi trí, và cõi bồ đề. Đương nhiên, tất cả những phân cấp này đều xuyên thấu lẫn nhau, và chỉ phân biệt được nhờ tần số rung động của chúng, khác nhau ở độ tinh vi và sự mau lẹ.
Phân cấp đậm đặc nhất hay thấp nhất là cấp mà nay được khoa học công nhận, và là môi trường mà qua đó sóng vô tuyến hoạt động. Khi chúng ta nghe radio, chúng ta đương nhiên chấp nhận sự biểu hiện vô hình này của chất dĩ thái, là một hiện tượng của khoa học, mà vài thế kỷ trước đây đã được xem không khác gì một phép lạ.
Chính việc đưa radio cũng có khuynh hướng phát triển một loại quang năng mới, mà phần lớn hầu như tự động. Mọi người đều đã trải nghiệm được cái cảm giác khi cố gắng bỏ qua thị giác, tư tưởng và ngay cả các chuyển động vật lý, để có thể hoàn toàn chuyên chú vào tiến trinh lắng nghe ở nội tâm.
Có đôi điều trong chính phương pháp này đã được áp dụng, nhưng được thực hiện với mức tập chung cao hơn, để giao tiếp với Chân sư của minh trong tham thiền. Thay vì chỉ giữ tình trạng hoàn toàn tiêu cực, người đệ tử tương lai phải cố gắng tích cực tự hòa hợp với rung động của dĩ thái có tần số cao hơn nhiều so với tần số của sóng vô tuyến.
Thực sự là khi muốn tạo ấn tượng lên người đệ tử vào một số thời gian khủng hoảng nghiêm trọng trong đời sống của y, đôi khi Chân sư có thể giáng xuống từ những cấp cao, nơi Ngài vẫn thường hoạt động. Nhưng quy trình thông thường là để người đệ tử nâng tâm thức của mình lên cao hơn độ rung động dĩ thái đang chế ngự cuộc sống hằng ngày ở thế gian. Nói cách khác, y giao tiếp với Chân sư của mình trên cõi trí, qua phân cấp dĩ thái nói trên, vốn có liên quan đến nguyên tố Phong.
Kiêng cữ thịt và rượu làm cho quy trình này dễ dàng hơn rất nhiều, vì cả hai thứ này đều có khuynh hướng làm cho thể dĩ thái đậm đặc. Người đệ tử dần dần ý thức được thực tế là có thể rèn luyện thể dĩ thái, giống như thể xác, nhưng theo cách khác. Đồng thời biết rằng, y có thể tùy ý khiến cho thể dĩ thái trở nên tích cực hay tiêu cực, tùy theo có yêu cầu nào đối với nó vào thời điểm đó.
Y cũng nhận thức rằng mình phải chế ngự được những thèm muốn của thân xác, trước khi có thể ý thức hay hiểu được khu vực dĩ thái thứ ba. Tương tự y phải có khả năng hiểu nhiều về những khó khăn tình cảm của người khác, trước khi có thể giao tiếp với phân cấp thứ hai thuộc về Phong. Chỉ trong phân cấp này mới có thể truyền tư tưởng chính xác được. Cuối cùng, thể trí phải hoàn toàn không còn mọi tham vọng cá nhân hay nóng giận trước khi có thể an toàn tiếp cận với phân cấp thứ nhất thuộc về Hỏa của dĩ thái. [21] Chính phân cấp cuối cùng và cao nhất này của dĩ thái được kết hợp với việc đánh thức Kundalini trong các luân xa dĩ thái của thể hồng trần. Thế nhưng nếu khơi dậy luồng lửa này mà trước đó không tinh luyện vật chất dĩ thái vốn kết hợp với các nguyên tố thấp và tất cả những gì liên quan đến chúng, thì hành giả sẽ bị nguy cơ nghiêm trọng.
Vì dù cho rằng luồng lửa có đi lên qua cố gắng mạnh mẽ và tạm thời của ý chí và nguyện vọng, thì nó cũng đi lên một cách không xác định, chỉ tạm thời hoạt động trong một thời gian, và dẫn đến những phản ứng bất hảo.
Không một bước nào trên chiếc thang phát triển tinh thần có thể bị bỏ qua mà an toàn. Điều này sẽ ngày căng rõ ràng khi hành giả trở nên tự ý thức trong thể dĩ thái của mình như hiện nay trong thể xác.
Suy ngẫm nhiều hơn về sự phát triển thể dĩ thái của con người trong tương lai tôi thấy rằng nếu một số đông người hơn trở lên tự ý thức được trong vật chất dĩ thái, thì chính chất dĩ thái của cõi trần sẽ có khả năng đáp ứng với ý chí của con người hơn hiện nay. Điều này sẽ rõ rệt trong một số nước hơn những nước khác, tùy theo nghiệp quả dĩ thái của dân tộc đó, là vấn đề đương nhiên rất khó hiểu, nên không thể giải thích đầy đủ ở đây. Chỉ cần nói rằng bằng cách cố gắng chế ngự phàm tính của mình, hành giả sẽ giúp siêu hóa những khu vực thấp kém của dĩ thái và nâng cao cả nước của mình đến mức đáp ứng được với những tần số rung động cao hơn. Trong cố gắng này, hanh giả sẽ được trợ giúp và hợp tác bởi các Thiên thần dĩ thái đang hoạt động trong các phân cấp cao của nguyên tố này.
Chân sư của tôi cho biết rằng việc hiểu biết và chinh phục nguyên tố dĩ thái tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ chẳng bao lâu nữa sẽ được đặt lên hàng đầu. Một phần cũng do mức độ biểu lộ của lực dĩ thái, nhất là trong vùng lân cận California. Tôi được thấy hình ảnh lá số tử vi của đất nước vĩ đại này, đương nhiên là không phải như lá số nào từ trước đến nay đã được công bố. Từ đó tôi nghi rằng thời điểm sinh ra đúng đắn sẽ không bao giờ được biết vì có khả năng sự hiểu biết đó sẽ bị khai thác cho những mục tiêu ích kỷ. [22]
Ngoài những điểm thú vị khác, tôi thấy rõ rằng một khía cạnh nào đó của Thổ tinh trong biểu đồ cơ bản đã tạm thời được tăng cường qua lá số có tăng tiến, khiến cho nhân loại phải thanh tẩy nhiều hơn vì bị buộc phải ngăn cấm. Tôi thấy rằng các Thiên thần của chủng tộc này đã hy vọng khiến cho toàn nước ấy tuân theo sự đổi mới vừa kể, nhằm đưa chủng tộc của họ lên phân cấp cao hơn của dĩ thái hồng trần. Luật mới này là sự biểu lộ của yếu tố Thổ tinh trong lá số của bạn, dù có xảy ra thất bại và thụt lùi qua ảnh hưởng bất lợi giữa một số hành tinh trong các nguyên tố Phong và Thủy. Nỗ lực áp đặt kỷ luật từ bên ngoài, rất thường có đối với loại tâm lý Thổ tinh, thì tỏ ra không được chấp nhận, và chỉ trở thành lợi khí của lực lượng bóng tối nhằm đẩy lùi nhân loại thậm chí trở vào loại vật còn thô đặc hơn trước.
Tôi thấy rõ rằng vị thế của các hành tinh khả dĩ mang lại hoạt động nhiều nhất trong các nguyên tố Thủy và Phong, cùng những phân cấp thích hợp của chúng trong dĩ thái. Thế nhưng dù hiện nay phần đông nhân loại tỏ ra hầu như quá bị kích thích bởi sinh lực trong nguyên tố dĩ thái, tôi thấy rằng điều này sẽ không còn nữa khi những mẫu người tiến hóa cao hơn nắm được phương pháp mới để làm sinh động và kiểm soát các luân xa dĩ thái của mình nhờ những lực dĩ thái kết hợp với Thiên Vương tinh, vốn quản trị Hoa Kỳ.
Tôi nhận ấn tượng để lưu ý rằng sự phát triển dĩ thái này trong tương lai chỉ cần phải nghiên cứu các loại hạch không tuyến và mối liên quan chặt chẽ của chúng với bốn phân cấp dĩ thái. Bởi vì người ta chỉ công nhận chung rằng những khả năng tinh thần cũng như thể chất của con người phụ thuộc rất lớn vào những chất tiết ra từ các cơ quan này. Tôi cũng thấy rằng những ai đã lạm dụng mãnh lực tình dục trong ngay tiền kiếp của mình thì chỉ có thể đáp ứng được với phân cấp thấp nhất của vật chất dĩ thái hồng trần, và cũng chỉ đáp ứng không đầy đủ. Ý nghĩ cấy ghép hạch tuyến từ loài vật sẽ bị xem là đáng ghê sợ, vì người ta hoàn toàn hiểu rằng sinh lực trong dĩ thái thì xuyên nhập vào hạch tuyến đó chứ không chỉ ở bên trong nó. Hơn nữa, chỉ việc cấy ghép hay cho dùng một loại hạch tuyến lấy từ loài vật cũng có khuynh hướng cắt đứt chân ngã khỏi thể xác, vì tần số rung động chia cách con người với loài vật.
Tôi thấy rằng toàn công cuộc phát triển của nhân loại trong tương lai sẽ cần có phối hợp hoàn toàn các hạch phi tuyến. Thế nhưng chỉ những người đã đạt được một mức độ tự chủ qua cuộc sống trong sạch từ tiền kiếp mới có thể dĩ thái cần mức thành tựu này.
Vì Thiên vương tinh cho đa số mọi người sẽ có ái lực với tuyến tùng hơn là Mặt trời, nên toàn quy trình tạo sự tương quan giữa các hạch phi tuyến cùng thể dĩ thái hồng trần sẽ bắt đầu từ luân xa đầu, và đi xuống vào tiềm thức nhờ phân cấp dĩ thái thứ tư thuộc Thiên vương tinh.[23] Khi cái trí trong tiềm thức tiết lộ mọi bí mật của nó và hoàn toàn được ý chí chế ngự, thì mãnh lực sống sẽ được tăng tốc và đi lên qua phân cấp thứ ba thuộc Mộc tinh. Bấy giờ, vị điểm đạo đồ tương lai sẽ hiểu được bí nhiệm của cung Song tử giữ nguyên và có năng lực kiểm soát hệ não tủy dưới sự hướng dẫn của Chân sư của minh. [24] Vào một thời điểm xa hơn, các hạch phi tuyến kết hợp với cung Thiên xứng vốn chi phối vùng lưng và là then chốt để kiểm soát hệ giao cảm, sẽ được sinh động nhiều hơn nhờ phân cấp dĩ thái thứ hai thuộc Hải vương tinh, và bấy giờ Giống dân sắp đến sẽ kết hợp các mãnh lực của nam và nữ trong cùng một cơ thể. Tôi hiểu thêm là phân bổ dĩ thái thứ nhất thuộc Mặt trời, từ trước đến giờ kết hợp với việc đánh thức luồng lửa Kundalini thì không còn tham gia vào cuộc phát triển mới này, và vẫn còn là một bí nhiệm bao gồm mối quan hệ giữa Chân sư và các Đệ tử cao cấp của Ngài.
Khi đã chinh phục được phân cấp dĩ thái thuộc Phong, thì việc chuyển các rung động tư tưởng sẽ trở nên bình thường như việc truyền rung động âm thanh hiện nay. Ảnh hưởng của cả Thiên vương tinh và Hải vương tinh sẽ là nguyên nhân kích thích dạng hoạt động mới này của dĩ thái trên cõi trí. Nhờ hoạt động một cách tích cực và tiêu cực trong phân cấp dĩ thái thuộc Phong, mẫu người Thiên vương tinh sẽ có khả năng truyền tư tưởng một cách hoàn hảo, và mẫu người Hải vương tinh trở thành trạm thu rất nhạy và hoàn hảo. Năng lực truyền tư tưởng này đã được các vị Thánh sư thực hiện để làm phương tiện liên lạc với nhau và với các Đệ tử của mình. Khi khả năng này trở nên hoàn hảo ở mỗi cá nhân, tức là người ấy đã phát triển đồng đều năng lực truyền của Thiên vương tinh và năng lực nhận của Hải vương tinh. [25]
Hiện nay Chân sư của chính tôi thì rất giỏi về loại quyền năng lưỡng nguyên này, và được các Huynh đệ của mình gọi là vị Thánh sư của Dĩ thái. Các vị ấy nhờ Ngài giải thích những vấn đề khó hiểu nhất liên quan đến dĩ thái vũ trụ xuyên qua không gian xa bên ngoài Thái dương hệ của chúng ta.
Kể từ Kỳ trăng tháng 1 năm 1910, khi Thiên vương tinh và Hải vương tinh ở vị thế đối lập với nhau cũng như ảnh hưởng xấu đến Hỏa tinh, Thổ tinh và Mộc tinh, thì ảnh hưởng thần bí của chúng trở thành đối tượng nghiên cứu và tham thiền cho mọi thành viên của Thiên đoàn. Các rung động của Thiên vương tinh và Hải vương tinh với đặc tinh không tiến triển và không được kiểm soát là nguyên nhân gây nên những sự bất hòa và xáo trộn, thì được các Đấng Cao cả sử dụng, trong các Ngài chúng lại trở thành được hoàn toàn tổng hợp, cho mục đích siêu hóa, tạo sự hài hòa, và tái xây dựng.
Sự tập trung mạnh mẽ của các Ngài vào việc giải quyết những vấn đề chung đã kết hợp các Ngài với nhau một cách chặt chẽ hơn bao giờ hết, và thậm chí còn có khuynh hướng tạo những nét mặt giống nhau giữa các Ngài, rõ nhất là trong biểu lộ của đôi mắt.
Trước hết trong số nhiều loại hoạt động phức tạp mà các Ngài tập trung chú ý, vốn chỉ có thể được thực hiện khi tiếp xúc với những rung động cao nhất của Hải vương tinh, là loại đồng nhất về tâm lý mà trước đây có liên quan đến Chân sư Koot Hoomi. Không chỉ Ngài, mà các vị khác cũng áp dụng quy trình này, khiến các Ngài có thể đi vào tâm thức các đệ tử của mình theo lối mới và tế nhị hơn, và thực tế là vào tâm thức của tất cả những ai đáp ứng được với những ảnh hưởng hành tinh này. Vì thế, theo một ý nghĩa nào đó các Đấng Cao cả đang trở lại thế gian, hòa vào tâm thức các đệ tử của mình, chia sẻ những khó khăn và vấn đề của họ trong đời sống hằng ngày. Và nếu có ai phản đối rằng việc giáng xuống những gì nhơ bẩn và tầm thường là không xứng đáng với tình trạng và phẩm cách của các Đấng Cao cả này, thì họ cần lưu ý rằng quyền năng giáng xuống những độ sâu thẳm hơn vừa kể tất sẽ kèm theo năng lực nâng lên đến những tầm cao cả hơn. Đồng thời việc đồng nhất gần gũi và mật thiết của các Thánh sư không những giúp các Ngài có thể hướng dẫn, an ủi và tạo hứng khởi cho các đệ tử thân yêu của mình trong các cõi giới vật chất, mà còn có thể tự đồng hóa với tâm thức của các Thực thể kỳ diệu – những Thiên thần trong vũ trụ, những Đấng Quản trị các hệ thống xa xăm – nhằm hợp nhất với những Vị mà các Ngài yêu thương, tôn kính, yêu quý, và ngưỡng vọng thậm chí giống như chúng ta ước muốn hợp nhất với Chân sư của mình.
Trang 45
Phụ lục A
Trang 46
Biểu đồ chiêm tinh
Tên: Hội Theosophia
Ngày: 17 tháng 11 Giờ: 8 giờ tối
New York 1875
Lá số tử vi của C. W. Leadbeater
Cung mọc: Cự giải Hành tinh chế ngự: Mặt trăng
Khía cạnh
Hình 1: Các hành tinh của C. W. Leadbeater liên quan đến lá số tử vi của Hội
Trang 47
CÁC HÀNH TINH
CỦA C. W. LEADBEATER LIÊN QUAN ĐẾN LÁ SỐ TỬ VI CỦA HỘI
Không dưới sáu hành tinh của C. W. Leadbeater có ảnh hưởng đến cung thứ chín thuộc ngày sinh của Hội Theosophia, từ đó cho thấy ảnh hưởng mạnh của thượng trí mà ông có đối với tổ chức này. Hải vương tinh, Thủy tinh và Mặt trời của ông, kết hợp chính xác với Hải vương tinh của bà Annie Besant, và hình thành cùng hình vuông với Mặt trời cơ bản, đã là nguyên nhân của hầu hết những nỗi khó khăn của bà bên trong Hội. Những khó khăn này được tăng cường qua Mặt trời của ông và Hải vương tinh thì đối lập với Thiên vương tinh cơ bản, đồng thời Mộc tinh của ông lại ảnh hưởng xấu đến Kim tinh cơ bản, là những khía cạnh đã tạo nên những điều kiện mạnh mẽ đủ để gợi lên nhiều sự chỉ trích từ thế giới bên ngoài cũng như ngay bên trong Hội.
Mặt trăng của ông thì ở giao điểm của vị trí cơ bản giữa bầu trời, tạo một góc 120 độ với ngôi Mặt trời cơ bản, giúp ông không những vẫn còn ở trong Hội, mà còn thống trị các hoạt động của Hội qua nhiều năm. Trong khi đó, Mộc tinh đang tăng tiến thuận lợi cũng tạo góc 120 độ với Mặt trăng cơ bản của ông, giúp phàm nhân của ông hưởng lợi từ Hội cũng như chủ yếu điều hành Hội theo những đường hướng nghi lễ. Vì có quá nhiều hành tinh trong Song ngư, và thậm chí Thổ tinh, là hành tinh đưa ba ảnh hưởng này vào cung Bảo bình, nên cũng trong cung ấy, tất nhiên ông đã hình dung ra các hoạt động tương lai của Cung Bảy trong phạm vi Thiên Chúa giáo và Hội Tam điểm, dù các hoạt động này chính yếu đã là hoạt động của Thời đại đang đi qua. Khuynh hướng này về phía ông trở nên ngày càng rõ nét trong các năm về sau, khi phàm nhân của ông ngày càng đáp ứng với khía cạnh Mộc tinh tăng tiến trong Hội, hình thành từ cung thứ năm, là cung của quá khứ.
Kiếp sau của ông hẳn sẽ đến dưới ảnh hưởng của Thổ tinh, vốn ở trong cung Song ngư, gợi ý cho thấy rằng cần phải thanh toán thêm nghiệp quả liên quan đến những dòng tư tưởng mà ông đã tạo ra cho quá nhiều người do phàm nhân mạnh mẽ của mình, vốn bị nhuộm màu quá nhiều bởi ảnh hưởng của Thời đại đang đi qua.
Trang 48
LÁ SỐ TỬ VI CỦA KRISHNAMURTI LIÊN QUAN ĐẾN LÁ SỐ CỦA HỘI
Trang 49
BIỂU ĐỒ CHIÊM TINH
Tên: Hội Theosophia
Ngày: 17 tháng 11 Giờ: 8 giờ tối
New York 1875
Lá số tử vi của Krishnamurti
Cung mọc: Cự giải Hành tinh chế ngự: Mặt trăng
Khía cạnh
Biểu đồ 1: Biểu đồ của Krishnamurti do tác giả tự vẽ.
Trang 50
LÁ SỐ TỬ VI
CỦA KRISHNAMURTI LIÊN QUAN ĐẾN HỘI
Chúng ta sẽ thấy ngay rằng đa số các hành tinh của Krishnamurti đều rơi vào cung mười hai thuộc ngày sinh của Hội, là cung nội quan và tự hủy. Mộc tinh và Hỏa tinh của ông đều có khía cạnh thuận lợi cho Thủy tinh và Mộc tinh cơ bản, theo thứ tự. Qua các mãnh lực hành tinh này ông đã có thể ảnh hưởng đến một số hội viên, là những người có đủ tự ý thức để trực nhận được dạng hướng nội đặc biệt mà thông điệp của ông yêu cầu. Với những người khác, đã có nhiều sự đối lập và bảo thủ xảy ra giữa hai lá số tử vi và tạo nên sự tàn phá tạm thời, bao gồm những truyền thống nội môn của quá khứ, các hoạt động hiện hành và thậm chí những khó khăn về tài chính. Mặt trăng của ông, tách biệt với góc 120 độ của Thiên vương tinh trong cung cơ bản về tài chính cho thấy sự trợ giúp tiền bạc mà ông đã nhận qua Hội trong thời gian ông còn trẻ và thời gian đầu của giai đoạn trưởng thành. Thế nhưng sự kiện Thổ tinh cơ bản và Thiên vương tinh ảnh hưởng xấu đến cung mọc của ông, đã khiến thời gian sau đó ông từ chối sự trợ giúp qua Hội dù là về mặt tinh thần hay theo ý nghĩa thế gian.
Dù có tất cả những sự xung đột vừa kể, cá tính nổi bật của ông đã tạo nên một dòng tư tưởng mới về sự tự ý thức bên trong Hội, qua góc 60 độ với Mặt trăng, trong cung Nhân mã thuộc về trực giác, hình thành giao điểm của cung cơ bản thứ chín chịu sự chi phối của Bảo bình là cung của Thời đại Mới. Qua khía cạnh này ông đã thoát khỏi những khó khăn ngay trước mắt để đi vào trạng thái tâm thức hoàn toàn vô ngã, từ đó những vấn đề, cả về mặt tâm lý và vật chất, tạo áp lực khá nhiều với phần đông mọi người, thì có vẻ chỉ như những điều tưởng tượng. Tuy nhiên sự kiện thực tế về cung Hổ cáp chi phối cung tương lai trong biểu đồ của chính Krishnamurti và có chứa Thổ tinh cũng như Thiên vương tinh, hành tinh sau bị ảnh hưởng xấu, là chỉ báo cho thấy kiếp sống kế tiếp của ông có thể bị dính líu đến những vấn đề có tính cách nhiều tâm lý mà hoặc là ông đã lẩn tránh hoặc bỏ qua trong kiếp sống này. Với những ai có Thổ tinh trong cung thứ chín thì trong kiếp sống này thường tạo nên nghiệp quả mới, mà bị buộc phải
Trang 51
được thanh toán trong một kiếp khác theo giới hạn của hành tinh đặc biệt này.
Trang 52
LÁ SỐ TỬ VI CỦA H. P. BLAVATSKY LIÊN QUAN ĐẾN LÁ SỐ CỦA HỘI
Trang 53
BIỂU ĐỒ CHIÊM TINH
Tên: Hội Theosophia
Ngày: 17 tháng 11 Giờ: 8 giờ tối
New York 1875
Lá số tử vi của H. P. Blavatsky
Cung mọc: Cự giải Hành tinh chế ngự: Mặt trăng
Khía cạnh
Biểu đồ 2: Lá số tử vi của Blavatsky do tác giả tự vẽ.
Trang 54
LÁ SỐ TỬ VI
CỦA H. P. BLAVATSKY LIÊN QUAN ĐẾN HỘI THEOSOPHIA
Thiên vương tinh đã ở trong cung Bảo bình của chính nó và trong cung thứ tám thuộc lá số của H. P. Blavatsky. Vị thế này cho thấy rằng bà đã biểu lộ qua hành tinh này chính yếu theo những đường hướng huyền môn, và rất có khả năng bà thậm chí còn chịu ảnh hưởng của nó nhiều hơn trong kiếp kế tiếp, vì cung Bảo bình chi phối giao điểm cung thứ chín của bà theo một ngày sinh. [26] Vị trí này của Thiên vương tinh trong Bảo bình cho thấy rằng Chân sư Koot Hoomi, là vị bà đã có liên giao rất mật thiết, khả dỹ lại dùng bà làm trung gian của Ngài do họ cùng kết hợp chặt chẽ với cung này. Mặt trời của H. P. Blavatsky ở trong cung Mãnh sư thuộc Hỏa, và vì thế làm sinh động các hành tinh trong cung Bảo bình và Hổ cáp thuộc ngày sinh của Hội. Chắc hẳn nó sẽ có hàm ý là bà khả dĩ trở lại cõi trần trong chu kỳ 30 năm của Hội thuộc về Bảo bình. Hành tinh chi phối của bà, là Mặt trăng, lại kết hợp với Kim tinh trong cung thứ tư, cho thấy cùng sự cảm nhận được bảo vệ về mặt vật chất cho Hội như bà Annie Besant đã có, khi Kim tinh của bà cũng ở vào vị thế tương tự.
Vị trí của Hải vương tinh trong cung thứ sáu của H. P. Blavatsky là nguyên nhân cho cả các hiện tượng cũng như những căn bệnh của bà, mà đã thường phát sinh do lực dĩ thái quá bị suy kiệt. Có được phần nào ảnh hưởng đang lên của Cự giải lúc sinh ra trễ hơn ảnh hưởng đó của Hội, Hải vương tinh của bà rơi vào cung thứ bảy của nó, hình thành những khía cạnh lợi ích cho ngôi Mặt trời cơ bản, rồi đến giao điểm của vị thế giữa bầu trời và giao điểm của cung thứ tư; tất cả những khía cạnh này cho thấy rõ ảnh hưởng tạo nguồn cảm hứng và bảo tồn của bà cho phong trào, khi bà còn tại thế, đồng thời rất có thể bà sẽ tiếp tục cùng công tác này dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Hải vương tinh, mà một lần nữa sẽ giúp bà đi tiên phong trong thời đại của mình. Những ý tưởng cơ bản của bà về huyền bí học đã được chấp nhận nhiều hay ít, thì vẫn sẽ còn giúp bà áp dụng khoa học cổ xưa này vào những vấn đề hiện đại trong Chu kỳ nhỏ của Bảo bình.
Trang 55
Phụ lục B
Hình 2: Chân sư Serapis do tác giả vẽ.
Trang 56
Hình 3: Chân sư Hilarion do tác giả vẽ.
Trang 57
Hình 4: Chân sư Jesus do tác giả vẽ.
Trang 58
Hình 5: Chân sư Morya do tác giả vẽ.
Trang 59
Hình 6: Chân sư thành Venice.
Trang 60
Hình 7: Chân sư Koot Hoomi
Trang 61
Hình 8: Đức Maitreya (Di Lạc Bồ tát) do tác giả vẽ.
[1] Vấn đề này đã được bàn đầy đủ trong quyển Người Điểm Đạo Đồ trong Chu Kỳ Hắc ám
[2] Cũng cần lưu ý rằng, các bức Chân dung của Đức Văn Minh Đại Đế và của Chân Sư thanh Venise thì giống như hình ảnh mà một số đạo sinh Tây phương thấy trong tham thiền.
[3] “ Những ai trong các bạn đã suy ngẫm kỹ về những vấn đề này đều nhận thấy rằng dù kiến thức của một vị Chân sư đối với chúng ta thì thực tế là toàn tri, thì thực ra chưa toàn tri trên cảnh giới của chinh Ngài, liên quan đến các vấn đề mà Ngài đang lo đối phó và giải quyết. Do đó, khả dĩ có việc tính toán sai hay có thể sai lầm, hoặc nhầm lẫn… Bấy giờ vị Chân sư tình nguyện phục vụ theo mức có thể.
[4] “ Nay Tây phương có sẵn sàng hay không để đón nhận lại một phong trào thuộc loại này? Có thể thực hiện phong trào đó trong môi trường như thế mà không gây hại nhiều hơn làm lợi, và có thể hoàn thành? Vì thế mà đã có nhiều bàn thảo… và hầu hết ý kiến đều không tán thành, cho rằng chưa đến lúc, vì vấn đề thời cơ luôn luôn là điều hết sức tế nhị, nên những Vị phải làm việc với đại luật chu kỳ và với cuộc tiến hóa của con người, lại cảm thấy rằng có gắng nói trên khả dĩ có thể thành công, cho dù thời gian chưa chín muồi, và thời cơ chưa đến.” Các Diễn văn tại Luân Đôn năm 1907, của bà Annie Besant, trang 126.
[5] Lá số tử vi của Hội Theosophia được đưa ra trong phần phụ lục của sách này, cùng với lá số của bà Annie Besant, C.W. Leadbeater, Krishnamurti, H.P. Blavatsky , …., …., và …, trong mối liên quan cụ thể của Hội.
[6] “ Trong hôn nhân và vấn đề tinh yêu, Thiên Vương tinh có thể đặc biệt có hại qua tính tự khẳng định của nó. Không hề có việc ‘ cho và nhận’ vì cá tính quá mạnh, và các loại dương tinh trong sự đồi trụy tình dục, quan hệ đồng tính, ..v.v.. kết hợp với hành tinh này đều do cùng khuynh hướng nói trên, có thẻ gây ra nhiều tội ác qua việc tự khẳng định minh, hoặc tạo điều kiện quan hệ đồng tinh qua sự tăng cường cực độ của cái tôi” – Vivian E.Robson, sách: Khoa Chiêm Tinh Hiện Đại, 1924.
[7] Chủ đề tế nhị này đã được bàn một cách toàn diện hơn trong quyển Người Điểm Đạo Đồ Trong Thế Giới Mới.
[8] Xem quyển Nghệ Thuật Tổng Hợp, trang 525, Alan Leo
[9] Xem quyển Người Điểm Đạo Đồ Trong Chu kỳ Hắc Ám, Routledge
[10] Kết hợp với các cung Thiên Xứng và Xử nữ-Hổ cáp.
[11] Để biết lịch sử chi tiết hơn về các mưu đồ của tổ chức này, hãy xem quyển Linh ảnh của Nazarene, cùng tác giả quyển Người Điểm Đạo Đồ trong Chu kỳ Hắc ám.
[12] Bi kịch khủng khiếp này đã đóng lại việc tiếp tục thêm các thí nghiệm nội môn về phần Chân sư Rakoczi . Bởi vì nước Aó có dấu hiệu khác cho thấy rằng Hải Vương tinh, hành tinh của nền dân chủ, trứ không phải là Mộc tinh, lại có ái lực lớn hơn với thời đại đang đi qua. Vì thế, hết kiếp ngai vàng này đến ngai vàng khác kết hợp với La Mã và chế độ nghi lễ nghiêm khắc của nó đã bị đổ, Trong khi ngày căng có nhiều thế hệ hoàng tử trẻ hơn kết hôn với thường dân.
[13] Xem quyển Con Người, Từ Đâu Đến, Bằng Cách Nào và Sẽ Về Đâu, tác giả Annie Besant, C.W. Leadbeater trang 456.
[14] Cyril Scott đã giải thích rõ hơn về vấn đề này trong quyển sách của ông, Âm Nhạc, Ảnh Hưởng Bí Ẩn Của Nó Qua Các Thời Đại, Rider & Co.
[15] Xem quyển Qua Tầm Nhìn Của Các Chân Sư, Trang 63.
[16] Hỏa tinh chế ngự thể cảm dục
[17] Xem quyển Qua Tầm Nhìn Của Các Chân Sư, trang 28.
[18] Trong Hội Theosphia
[19] “ Có nhiều thời gian dành cho tất cả các thí nghiệm, những lầm lẫn vụng về, và thất bại. Nhưng mọi thành công trong tương lai đều phát sinh từ đó, vì mọi thất bại nếu thấy cho đúng thì chính là hạt giống cho thành công sau này.” – Annie Besant, các bài thuyết trinh tại Luân Đôn năm 1967.
[20] Routledge & Sons, Ltd
[21] Mỗi một trong bốn phân cấp của dĩ thái chịu ảnh hưởng của một hành tinh khác nhau. Theo khoa số học cổ đại, Mặt trời có ái lực với số một (Dĩ thái 1), Hải Vương tinh có ái lực với số 2, Mộc tinh có ái lực với số 3, Thiên vương tinh có ái lực với số 4.
[22] “ Ông Mr. George Plummer ở New York. Đã có lòng tốt gửi cho tôi một bản tạp chí của ông, tờ Mercur, trong đó có một bài thu thập những lời tuyên bố khác nhau có tính cách mâu thuẫn về ngày sinh của Hoa Kỳ. Ngoài vấn đề thắc mắc về ngày tháng năm, dường như có những lý do đặc biệt để chọn ngày 2, 4, hoặc 8 tháng 7 năm 1776 và tháng 8 năm 1776, 15 tháng 11 năm 1777, hoặc tháng 6 năm 1788, là ngày sinh đung. Vì thế tôi chỉ muốn khuyến cáo độc giải đừng lên chấp nhận bất cứ lá số tử vi nào mà họ cho là lá số chắc chắn của Hoa Kỳ.” – Vivian E. Robson, B.Sc, tháng 1/1933, Tạp Chí Chiêm tinh Anh Quốc.
[23] Phương pháp phát triển này sẽ là một phần của các bí nhiệm nhỏ trên những nội giới trong giai đoạn thuộc Thiên vương tinh của Thời đại Bảo binh.
[24] Những người có ái lực với Song tử sẽ cố thấu hiểu bí nhiệm của cung này. Những mẫu người khác sẽ tạo tương quan của phân cấp dĩ thái thuộc Thổ tinh với cung Nhân mã và trở nên trung gian thành thạo cho Chân sư theo những đường lối công việc hợp tác khác nhau.
[25] “Trong số các lợi điểm của Yoga có khả năng liên giao với các Huấn sư. Trong khả năng này người ta phải phân biệt hai loại dòng tư tưởng. Loại dòng biệt lập và loại dòng trong không gian. Dòng biệt lập đáp ứng với chỉ một Huấn sư đã chọn. Dòng không gian cho phép hành giả không những giao tiếp với nhiều Huấn sư mà còn có khả năng nhận được kiến thức cấp vũ trụ. Giống như ngọn đèn bị ảnh hưởng bới nhiều luồng gió khác nhau, thì các luân xa cũng rung động với các dòng trong không gian. Thực ra cần phải thận trọng để đưa vào cuộc sống hàng ngày sự phối hợp của các năng lượng khác nhau đó.” – Agni Yoga.
[26] Giờ sinh chính xác của H. P. Blavatsky không được biết