Tổng hợp các chướng ngại và Chứng Đạo – Đệ Tử và Điểm Đạo trên đường tu

TỔNG HỢP CÁC CHƯỚNG NGẠI KHI TU HÀNH
THẤY ĐẠOCHỨNG ĐẠO HAY ĐIỂM ĐẠO TRÊN ĐƯỜNG TU

I- Các đường dẫn cần đọc

Xem: 66 Lời Phật dậy trong cuộc sống
Xem: Kinh Thiện Sinh – Lời Phật dậy về đạo làm người

II- Tổng hợp từ Tooltip

+ Phải ăn chay để Thanh luyện thể xác:

1/ “Ngọn lửa thanh luyện cháy lu mờ và yếu ớt khi giới thứ ba bị hy sinh cho giới thứ tư. Do đó, vị đệ tử hãy ngưng việc giết chóc và hãy nuôi dưỡng phần thấp nhất bằng sản vật của giới thứ hai”. Phàm ngã trở nên bị trì trệ và nặng nề, còn ngọn lửa nội tâm không thể tỏa chiếu khi thịt được dùng làm thức ăn. Mỗi đệ tử cần phải ăn chay nghiêm túc, không thể bị vi phạm. Kẻ tìm đạo có thể chọn ăn thịt hay không tùy thích, nhưng đến một giai đoạn nào đó trên thánh đạo, điều thiết yếu là phải ngưng ăn mọi loại thịt và chú tâm nhiều vào việc ăn uống. Vị đệ tử phải tự giới hạn vào việc ăn rau quả, cốc loại và quả hạt (nuts).  Chỉ bằng cách này, đệ tử mới tạo được loại thể xácthể chịu đựng việc giáng nhập của Chân nhân là vị ngự trong các thể tinh anh của mình trước Đấng Điểm đạo. Nếu không làm được như thế và nếu đệ tử có thể được điểm đạo mà không tự chuẩn bị như thế thì thể xác sẽ bị xé tan bởi năng lượng đang tuôn đổ qua các bí huyệt mới được kích hoạt và mối nguy hiểm lớn lao sẽ xảy tới cho não bộ, xương sống hoặc tim. (ĐĐNLVTD, 196–197)

2/ Chân nhân không thể chuyển tri thức và hướng dẫn cao siêu qua một thể xác thô trược. Những luồng tư tưởng cao siêu không thể tác động vào bộ óc hồng trần kém tiến hóa. Do đó, thanh luyện bằng thức ăn tinh khiết là điều thiết yếu. Nó đòi hỏi việc chỉ ăn các rau quả đem lại sinh lực. Chọn thức ăn, sáng suốt hạn chế thức ăn khó tiêu, một ít thức ăn tươi tốt và tinh khiết: Là Sữa, mật ong, bánh mì làm bằng bột mì lức, tất cả các loại rau mọc ngoài nắng, cam (nhất là cam), chuối, nho khô, quả hạt (nuts), khoai tây, gạo lứt – Bấy nhiêu là đủ. (TVTTHL, 334–335)

3/ Khi hướng tới cõi giới giá trị cao siêu xảy ra thì bấy giờ dĩ thái lực hay sinh lực lại xung đột với trạng thái thấp nhất của con người, tức thể xác trọng trược, và trận chiến của các cặp đối hợp xảy ra. Trong giai đoạn này cần phải chú trọng vào việc giữ giới luật cho xác thân, vào các yếu tố kềm chế như là hoàn toàn có tiết độ, sống độc thân và theo chế độ ăn chay, chú trọng vào việc vệ sinh xác thân và tập thể dục. Nhờ các yếu tố này mà việc kềm chế sự sống bởi hình hàithể được xóa bỏ, con người thoát khỏi cuộc chiến thực sự của các cặp đối hợp. (TLHNM II, 309)

4/ Những ai tìm cách đọc tiên thiên ký ảnh, hay những ai cố hoạt động trên cõi cảm dục mà muốn cho không có sự thất thoát nào, để tìm kiếm nơi đó hình ảnh của các biến cố trong cảm dục quang một cách chính xác, đều bắt buộc phải là người ăn chay nghiêm túc và không có ngoại lệ nào cả. Chính kho tàng tri thức cổ xưa này của thời Atlantis nằm đàng sau sự kiên trì của kẻ ăn chay về sự cần thiết của cách ăn chay vốn đem lại sức mạnh và chân lý đối với nghiêm lệnh này. Chính vì không tuân theo quy luật sáng suốt này đã tạo ra các giải thích sai lầm đối với các ký ảnh cảm dụctiên thiên ký ảnh của nhiều nhà tâm thông hiện tại và đã tạo ra việc soi kiếp bừa bãi và thiếu chính xác. Chỉ có người nào ăn chay nghiêm nhặt trong 10 năm mới có thể hoạt động như vậy trong trạng tháithể được gọi là “trạng thái ghi nhận ánh sáng cảm dục”.(TLHNM I, 241)

Đối với con người, bí nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. (LVHLT, 225)
Tuyến tùng quả là cơ quan bên ngoài, ở cõi trần của nội nhãn thông. (LVLCK, 965)

+ Cách Tu: Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 37, Phật nói: ” Tu 1 ngày 1 đêm ở cõi ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả 100 năm. Tại sao vậy? Cõi nước của đức phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở ta bà 10 ngày đêm hơn làm lành 1000 năm ở các cõi phật khác. Tại sao vậy? Vì cõi nước phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ”
– Đức Phật dạy Tu hành:
Lạy, không phải là quỳ lưng nằm sấp mà là buông bỏ ngạo mạn
Niệm, không phải là tính số lần mà là thanh tịnh lương tâm
Xá, không phải là chắp tay cái chào mà là cũng kính đối phương
Định, không phải là ngồi yên bất động mà là ngoài tâm vô vật
Hỷ, không chỉ là nét mặt tươi vui mà là thân tâm thư thái
Tu, không chỉ buông bỏ dục vọng mà là tâm không ích kỷ
Thí, không phải là buông bỏ tất cả mà là tích lũy từ bi
+ Ðức Phật dạy: “Người tu học theo con đường của Phật thì phải tin tưởng và thực hành những lời Phật dạy. Thí dụ ăn mật, ở giữa hay chung quanh bát đều ngọt. Giáo pháp của ta cũng vậy” (đều có vị ngọt giải thoát).
+ Ðức Phật dạy: “Người tu như kẻ mang cỏ khô, thấy lửa đến phải tránh, người học Ðạo thấy các đối tượng dục lạc phải tránh xa” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết – Tâm Linh Tu Hành

+ Tự Tại: Phật dạy 10 điều tự tại phải ghi nhớ trọn đời trọn kiếp.
1. Thọ tự tại: Cuộc sống là hữu hạn, không ai có thể an bài, duyên vạn kiếp mà không lâu, kề bên một niệm mà không ngắn, đây là thọ tự tại. Vì thế, đừng bận tâm cuộc đời dài hay ngắn, chỉ quan tâm làm thế nào để sống thật tốt.
2. Tài tự tại: Hết thảy mọi vật lực đều là quả báo từ kiếp trước, cầu không được, mong không có, chỉ tự mình bồi đắp.
3. Nghiệp tự tại: Chúng sinh tùy nghiệp mà ở, tùy nghiệp mà đầu thai, tùy phiền não nghiệp tập mà lập nghiệp.
4. Sinh tự tại: Sinh ra là hữu duyên, sinh ở đâu, làm con ai đều là tiền duyên nghiệp báo, không thể thay đổi.
5. Nguyện tự tại: Người thường có tâm nguyện thì khó mà tự tại, tốt nhất nên biến thành hư nguyện, chỉ nên thành tâm mà làm, còn viên mãn hay không phải tùy duyên.
6. Tâm tự tại: Nội tâm tự do, không tham lam, không muộn phiền, không dục vọng, nhất nhất đều an nhiên.
7. Như ý tự tại: Cái gì phải tới sẽ tới, cái gì phải đi sẽ đi, bất luận ra sao thì cong người cũng không có khả năng cản trở hay né tránh, nên cứ bình thản mà đón nhận.
8. Pháp tự tại: Tu hành sẽ viên mãn, độ hóa sẽ giác ngộ, nhất tâm chấp niệm Phật giáo.
9. Thắng thua tự tại: Thắng chính bản thân mình là thắng lớn nhất, thua chính bản thân mình là thua lớn nhất.
10. Trí tự tại: Tích trí để hành thiện và sống thiện, người có trí thì tinh thông, người không có trí thì ngu dốt. Trí là để nâng cao bản thân, không phải vì danh lợi.
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Lễ BáiLễ LậyLễ Lạy: Ðức Phật dạy Lế 6 phương:
1. Phương đông – Cha mẹ, con làm 5 việc: Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng. Cha mẹ làm 5 việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp. Đây là đạo nghĩa cha mẹ con cái.

2. Phương nam – Thầy Tổ, học trò làm 5 việc: Một là giữ lòng kính trọng. Hai là quan tâm săn sóc. Ba là chăm chỉ học hành. Bốn là đáp ứng khi cần. Năm là hấp thụ những gì được truyền dạy. Thầy làm 5 việc: Một là dạy trò những chuyên môn của mình. Hai là dùng phương pháp dễ hiểu. Ba là không giấu nghề. Bốn là giới thiệu tiến thân. Năm là bố trí an toàn cho trò. Ðó là đạo nghĩa thầy trò.

3. Phương tây – Hôn phối, chồng làm 5 việc: Một là đối xử hoà ái. Hai là không bạc đãi khinh khi. Ba là một dạ thủy chung. Bốn là giao quyền nội chính. Năm là tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ. Người vợ làm 5 việc: Một là quán xuyến công việc gia đình. Hai là cư xử với hai họ một cách đồng đều. Ba là một lòng tiết hạnh. Bốn là gìn giữ tài sản. Năm là cần mẫn trong bổn phận. Ðó là cách lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng.

4. Phương bắc – Bạn bè, làm 5 việc: Một là rộng rãi. Hai là nhã nhặn. Ba là quan tâm lợi ích của bạn. Bốn là đồng cam cộng khổ. Năm là thành thật. Với một bạn tốt, làm 5 việc: Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ. Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã. Ba là làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ. Bốn là không bỏ bạn lúc nguy biến. Năm là cư xử tốt với người thân của bạn. Ðó là đạo nghĩa bạn bè.

5. Phương dưới – Giúp việc, Chủ làm 5 việc: Một là không giao việc quá sức. Hai là trả thù lao tương xứng. Ba là chăm sóc khi đau yếu. Bốn là chia sớt món ngon vật lạ. Năm là không bắt làm việc quá giờ. Người giúp việc làm 5 việc: Một là thức trước chủ. Hai là ngủ sau chủ. Ba là không lấy những thứ không cho. Bốn là siêng năng làm việc. Năm là giữ tiếng tốt cho chủ. Ðó là đạo nghĩa chủ tớ.

6. Phương trên – dee56ba09a44d5771116e9fe918eda54, cư sĩ làm 5 việc: Một là cử chỉ thân thiện. Hai là lời nói thân thiện. Ba là tư tưởng thân thiện. Bốn là luôn mở rộng cửa đón tiếp. Năm là cúng dường tứ sự. Với cư sĩ, sa môn làm 5 việc: Một là hướng dẫn cư sĩ xa điều ác. Hai là hướng dẫn cư sĩ làm việc lành. Ba là luôn cư xử với tâm từ ái. Bốn là giảng giải đạo lý tường tận. Năm là chỉ đường an vui đời sau. Ðó là đạo nghĩa tăng tục.
Sin Ga La bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn …. (Nguồn: Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Lễ PhậtLậy Phật: CÔNG ĐỨC LẠY PHẬT RẤT LỚN: “Thân vô tà hạnh”, tốt nhất là lạy Phật nhiều hơn, công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lại vô cùng thù thắng. Nếu như mỗi ngày lạy 100 lạy, mãi không gián đoạn, lạy được một năm thì quý vị nhất định khoẻ mạnh trường thọ, thân thể dẻo dai, không sinh bệnh. Chưa tới tuổi trung niên thì mỗi ngày phải lạy Phật ít nhất 300 lạy. Khi lạy Phật có vận động, có cường thân, tu định lại tu huệ. Tâm của người lạy Phật thanh tịnh, thân vận động.
Đừng sợ đổ mồ hôi, đổ mồ hôi tốt, vì bài được độc tố và dơ bẩn trong thân thể ra bên ngoài. Bài ra ngoài rồi thì không sinh bệnh. Đặc biệt là viêm khớp, bệnh phong thấp, không bài tiết ra đường tiểu, tích trong các khớp xương thành viêm. (Pháp sư Tịnh Không)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Niệm Phật: Trong kinh Đại Tập, đức Phật dạy: “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”, tức Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ (Nguồn)
– Pháp Niệm Phật: Ðức Phật dạy, có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. (Tăng Chi Bộ Kinh).
Bồ Tát Quan Âm khuyên người niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ; Trích Đường Về Cực Lạc – Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Xem bài viết)
– PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT CHẤN ĐỘNG HƯ KHÔNG PHÁP GIỚI: Nếu người niệm Phật không có tư tâm, không có vọng tưởng, phân biệt và chấp trước, “Tâm bao thái hư, Lượng chu sa giới”, mỗi tiếng Phật hiệu mà niệm, đều có thể chấn động hư không pháp giới. Người niệm Phật này còn thù thắng hơn, so với mười ngàn người ở niệm Phật đường; Hòa Thượng Tịnh Không (Xem bài)
– BÍ QUYẾT NIỆM PHẬT LÀ: Ý NIỆM VỪA MỚI KHỞI LÊN THIỆN NIỆM CŨNG ĐƯỢC, ÁC NIỆM CŨNG ĐƯỢC ; NHẤT ĐỊNH CHẲNG ĐOÁI HOÀI, NGAY LẬP TỨC ĐỔI NÓ THÀNH A DI ĐÀ PHẬT. ĐỔI CHO NHANH, CÀNG NHANH CÀNG HAY, CHỚ ĐỂ CHO Ý NIỆM ẤY TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG; Trích A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA –tập 68-phần 34; Lão Hòa Thượng Tịnh Không (Xem bài)
– Niệm Phật vài tiếng Niệm – Quỷ liền lui (Xem bài viết)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Tự nguy – Tự hại mình: Ðức Phật dạy có 4 điều: Một là gánh vác việc nhà người; hai là làm chứng việc nhà người; ba là mai mối vợ chồng người; bốn là tin theo lời tà siểm. Ấy là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong kinh dạy rằng: “Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai họa vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng.” KINH HIỀN NHÂN.
Tự Hoại – Ðức Phật dạy có 4 điều: Một là cây có nhiều hoa trái thì nặng sẽ gẫy nhánh; hai là rắn độc ngậm nọc độc, nọc sẽ trở lại hại nó; ba là người làm tôi không hiền thì sẽ hại nước nhà; bốn là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đọa vào địa ngục; ấy là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong kinh dạy rằng: “Sự độc ác do tâm sinh ra và sẽ trở lại tự hại tâm mình, cũng như sắt sinh ra chất sét, chất sét ấy sẽ trở lại tiêu hình của sắt.”; KINH HIỀN NHÂN.

+ Tín TâmTin Phật Pháp: Tỷ kheo có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Tỷ-kheo ấy không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt, hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Tỷ-kheo ấy sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu với các thiện pháp. Tỷ-kheo ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt các pháp, Thành tựu sự thể nhập thuộc bậc Thánh, đưa đến chân chánh đoạn diệt khổ đau.
– Vị ấy suy nghĩ như trên: “Ta có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,…Phật, Thế Tôn; Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa….”, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc?”(Xem phẩm Vua – Tỷ Kheo)

+ Nhiếp Tâm: Ðức Phật dạy: “Tỳ-kheo các ông! Nếu người nhiếp tâm thì tâm được định. Nhờ tâm được định, có thể biết được các tướng của pháp sanh diệt ở thế gian. Vậy nên các ông thường phải tinh tấn tu tập các phép định. Nếu người được định thì tâm chẳng tán loạn. Ví như người muốn giữ nước, phải khéo đắp sửa bờ đê. Người tu cũng thế, vì giữ nước trí huệ, nên khéo tu thiền định, chẳng để cho rỉ chảy mất.- KINH DI GIÁO.

+ Phước nghiệpTu phước: Có 3 căn bản:
1. Hạng người sau đây, khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người không may mắn vì:
– Làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ
– Làm phước do giới đức trên một quy mô nhỏ
– Làm phước do tu tập trên một quy mô nhỏ.

2. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người có may mắn vì:
– Làm phước do bố thí trên một quy mô vừa
– Làm phước do giới đức trên một quy mô vừa
– Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.

3. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên vì:
– Làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn
– Làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn
– Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.

* Có nhiều cấp bậc chư thiên mà người đó có thể được sanh đến như
– Chư Thiên ở Tam thập Tam thiên
– Chư Thiên ở Yàma thiên
– Chư Thiên ở Tusità thiên
– Chư Thiên ở Hóa lạc thiên
– Chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên
Xem: Ba căn bản phước nghiệp

+ Người chí nguyện (Con đường dự bị): Là người có nguyện vọng thực hiện một điều cao thượng hay tốt đẹp. Nguyện vọng này mang lại cuộc sống, sự suy tưởng và đức hạnh chân chính đến mức nào đó. Điều đó được gọi là đức hạnh. Lập hạnh là một trong những thành tựu quan trọng nhất đối với người chí nguyện. Người chí nguyện xem xét những phương diện nào nơi chính mình cần điều chỉnh, và những đức hạnh cần có, tăng cường các phẩm tính tích cực cũng như loại bỏ những nhược điểm hay khuyết điểm trong phàm ngã.
– Trên Con Đường Dự bị, người chí nguyện liên tục cố gắng để phối hợp các hạ thểthể xác/ thể dĩ thái, các lĩnh vực cảm dụchạ trí để phát triển một “phàm ngã tích hợp” qua sức hấp dẫn của linh hồn đối với các mãnh lực cấp thấp. Dù người chí nguyện chính yếu vẫn còn đồng hóa với phàm ngã, nay y đã có mục đích tâp trung vào Chân ngã hay “Linh hồn” là nguồn năng lượng cao siêu và tâm thức tinh thần (MQ 5; tr3)
+ Họ đang trở nên ý thức với loại năng lượng cơ bản thứ 5 – là năng lượng của linh hồn. Những người chí nguyện tự thích ứng để phù hợp với mối quan hệ tập thể đã chọn của họ. Họ rèn luyện phàm ngã tích hợp đến sự thể hiện cao nhất của các năng lực của nó, sao cho những năng lực này có thể được sử dụng để trợ giúp nhu cầu của tập thể, và nhờ thế mà phàm ngã của người chí nguyệnthể được tích hợp vào nhóm. Qua đó sự sống tập thể được phong phú, những tiềm năng tập thể được gia tăng, và ý thức tập thể được tăng cường. Nguồn: ( GQ1.Con ngườitâm thức)
Xem: Các Động lực của Linh hồnPhàm ngã
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ….
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Tâm thức người chí nguyện: Họ đang trở nên ý thức với loại năng lượng cơ bản thứ 5 – là năng lượng của linh hồn. Những người chí nguyện tự thích ứng để phù hợp với mối quan hệ tập thể đã chọn của họ. Họ rèn luyện phàm ngã tích hợp đến sự thể hiện cao nhất của các năng lực của nó, sao cho những năng lực này có thể được sử dụng để trợ giúp nhu cầu của tập thể, và nhờ thế mà phàm ngã của người chí nguyệnthể được tích hợp vào nhóm. Qua đó sự sống tập thể được phong phú, những tiềm năng tập thể được gia tăng, và ý thức tập thể được tăng cường.
Tác động 3 của Linh hồn. Trên con đường Điểm đạo :
– Tác động của linh hồn được cảm nhận ở những cuộc điểm đạo khác nhau và liên tiếp nhau mà người đệ tử cuối cùng được thọ lãnh, vì y đã đi ra khỏi giới thứ tư và nhập vào giới thứ năm (giới linh hồn) trong thiên nhiên. Sự tiếp xúc Giác Ngộ này được đưa vào hiệu quả nhờ thể trí.
– Sự điểm đạo chính là việc nhập vào ảnh hưởng và mãnh lực của linh hồn con người – là lòng bác ái sáng suốt và ý chí tinh thần, là việc nhập vào một thế giới mới và có kích thước rộng hơn nhờ việc mở rộng tâm thức.
Cuộc Điểm Đạo Đầu Tiên – “Sự Sinh ra ở Bethlehem”: sự kiểm soát của Ego hay Linh Hồn đối với thể xác đã phải đạt đến một mức độ thành tựu cao. “Tội lỗi của xác thịt,” phải được thống trị; tính háu ăn, thói nghiện rượu, và sự đa dục phải không còn thống trị. Nhu cầu của Tinh linh vật chất sẽ không còn được tuân theo; sự kiểm soát phải hoàn toàn và sự quyến rũ đã hết. Một thái độ chung về sự tuân phục Chân Ngã phải được đạt đến, và sự sẵn lòng vâng lời phải rất mạnh.
Cuộc Điểm Đạo Thứ Hai – “Lễ Rửa Tội ở sông Jordan”: nó tạo thành bước ngoặt trong việc kiểm soát thể cảm dục. Việc kiểm soát thể cảm dục được thể hiện tương tự như trên.
Cuộc Điểm Đạo Thứ Ba – “Sự Biến Hình”: điểm đạo đồ học cách kiểm soát hiện thể trí tuệ của mình và có được sự chủ trị trên bốn cõi phụ thấp trong ba cõi của tam giới.
– Cuộc Điểm Đạo Thứ Tư – ” Sự Tử Bỏ”. Tại thời điểm này, hoa sen chân ngã vỡ tan, và Thái Dương Thiên Thần rời đi. Cây cầu trong tâm thức giữa Chân Thầncon người đã được thành lập thông qua Antahkarana, và từ thời điểm này trở đi, chính Tia Linh Quang Chân Thần, hoặc Bản Lai Diện Mục (Presence) của Thượng Đế, hoạt động qua con người…v….v….
Xem phẩm Vua – Tỷ Kheo
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết – Tâm Linh Tu Hành
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Tu Hành:
Tỳ kheo không thành tựu các pháp thì KHÔNG đáng được cung kính, tôn trọng, cúng dường, chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Ngược lại thì không xứng đáng:
– Năm pháp kham nhẫn:
1. Không Kham nhẫn các sắc: Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, tham đắm các sắc khả ái, không có thể giữ tâm định tĩnh
2. Không Kham nhẫn các tiếng: Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng, tham đắm các tiếng khả ái, không có thể giữ tâm định tĩnh
3. Không Kham nhẫn các hương: Tỷ-kheo khi mũi ngửi các hương, tham đắm các hương khả ái, không có thể giữ tâm định tĩnh
4. Không Kham nhẫn các vị: Tỷ-kheo khi lưỡi nếm các vị, tham đắm các vị khả ái, không có thể giữ tâm định tĩnh
5. Không Kham nhẫn các xúc: Tỷ-kheo khi thân cảm các xúc, tham đắm các xúc khả ái, không có thể giữ tâm định tĩnh
Xem phẩm Vua – Tỷ Kheo
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết – Tâm Linh Tu Hành

+ Chướng ngại khi Tu: Cách nói ẩn dụ của các huyền bí gia Ấn Độ khi nói đến “Con Mắt của Shiva”, tức là “có đệ tam nhãn” được chứng minh là có lý. Việc chuyển di tuyến tùng quả (có thời là Con Mắt Thứ Ba) ra trước trán chỉ là cách nói lệch lạc của ngoại môn. Việc này cũng rọi ánh sáng vào một điều bí nhiệm mà một số người không thể hiểu được, về mối liên hệ giữa tình trạng có nhãn thông với sự tinh khiết về mặt sinh lý của Nhà Nhãn thông (Seer). Câu hỏi sau đây thường được đưa ra: “Tại sao đời sống độc thân và sự trinh khiết (chastity) lại là điều kiện tất yếu của hàng đệ tử thông thường khi muốn phát triển các quyền năng tâm linh thần bí? Câu trả lời nằm trong Thiên bình luận. Nếu chúng ta biết được rằng Con Mắt thứ ba trước là cơ quan sinh lý, rồi sau đó, do sự biến mất từ từ của tính chất tâm linh và việc tăng tiến của tính chất vật chất, bản chất tâm linh vì bị bản chất vật chất dập tắt nên nó trở thành một cơ quan thoái hóa mà hiện nay các nhà sinh lý học chỉ hiểu được đôi chút (giống như trường hợp của lá lách) – Khi chúng ta hiểu được điều này thì mối liên hệ sẽ trở nên rõ rệt hơn. Trong kiếp sống con người, trở ngại lớn nhất trên đường phát triển tâm linh và nhất là để hoạch đắc các quyền năng nhờ yoga là hoạt động của các khả năng sinh lý. Do tác động hỗ tương, hoạt động tình dục cũng có liên quan chặt chẽ với tủy sống và chất xám của bộ óc, không cần giải thích dài dòng thêm nữa. Dĩ nhiên, tình trạng bình thường và bất thường của bộ óc và mức độ hoạt động tích cực của tủy sống sẽ tác động mạnh mẽ lên tuyến tùng quả, bởi vì, do con số các “trung tâm”, ở vùng đó, từ lâu đã kềm chế một số lớn các tác động sinh lý của cơ cấu động vật, và cũng do sự gần gũi mật thiết của cả hai nên tủy sống phải có một tác động “cảm ứng” rất mạnh lên tùng quả tuyến. (GLBN III, 297)

+ Đau khổphiền não: “ Nên nhớ rằng, bất cứ nỗ lực nào cũng tạo ra kháng lực, và kháng lực trong thể xác của con người biểu lộ dưới hình thức đau đớn. Một phần lớn các đau khổphiền não xảy ra do bởi con người phản kháng lại Định Luật Nghiệp Quả và phẫn uất với các hoàn cảnh bắt buộc mà luật đó áp đặt lên họ, Vun trồng một tâm trí thăng bằng và một nhân sinh quan hợp lý sẽ làm giảm bớt tình trạng này đi nhiều. (VLH, 265)

+ Thấy ĐạoChứng ĐạoĐiểm đạo: Có nghĩa là bắt đầu hay tiến nhập vào sự sống tâm linh hay vào giai đoạn mới trong sự sống đó. Đó là bước đầu và các bước kế tiếp trên Thánh đạo. Theo nghĩa đen, một người được điểm đạo lần thứ nhất là người đã đi bước đầu tiên vào giới Tinh thần, đã dứt khoát vượt qua khỏi giới nhân loại để vào giới siêu nhân loại. (ĐĐNLVTD, 10).

– Về thực chất, điểm đạo là việc chuyển ra khỏi các kiềm chế cũ xưa, đi vào sự kiềm chế của các giá trị thiên về tâm linh hơn và ngày càng cao sâu hơn. Điểm đạo là việc mở rộng ý thức để đưa tới việc thừa nhận ngày càng nhiều các thực tại nội tâm. Đó cũng là việc thừa nhận một ý thức đổi mới về việc cần có thay đổi và điều khiển một cách khôn ngoan các thay đổi cần thiết này sao cho có thể tạo ra tiến bộ thật sự; ý thức được mở rộng trở nên bao dung hơn và bao quát về mặt thiêng liêng, có sự kiềm chế mới và mạnh mẽ hơn của linh hồn khi linh hồn ngày càng đảm nhận hướng đi cho sự sống của cá nhân, của một quốc gia và của thế giới.(SHLCTĐ, 136).

– Khi dọn mình để được điểm đạo, kẻ tìm đạo cần phải làm được 3 điều:

a/ Kiểm soát mọi hoạt động của phàm ngã tam phân. Điều này bao hàm việc đặt năng lượng thông tuệ vào mọi nguyên tử thuộc 3 thể của mình – thể xác, thể cảm dụcthể hạ trí. Theo nghĩa đen, đó là sự tỏa chiếu của Brahma hay Ngôi Ba, của Thượng Đế nội tâm.

b/ Hằng ngày, kiểm soát lời nói trong mọi giây phút. Đây là điều dễ nói nhưng khó thực hành nhất. Kẻ nào làm được sẽ mau đến gần mức giải thoát. Đây không phải là tính ít nói, tính lầm lì, im lặng, thầm lặng, vốn thường là đặc trưng cho bản chất kém tiến hóa, mà thực ra đó là tình trạng thiếu khả năng diễn đạt. Ở đây là việc dùng ngôn từ một cách có kềm chế để thành đạt một vài mục tiêu, tiết kiệm năng lượng của lời nói lúc không cần thiết – một vấn đề hoàn toàn khác. Nó đòi hỏi việc hiểu biết các chu kỳ, các thời kỳ và mùa tiết, nó đòi hỏi việc hiểu biết về quyền năng của âm thanh và về các hiệu quả do lời nói tạo ra; nó bao hàm việc thấu hiểu về các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên và việc vận dụng các mãnh lực đó một cách đúng đắn và được dựa trên khả năng vận dụng chất liệu cõi trí và khởi động chất liệu đó để tạo ra trong chất liệu cõi trần các kết quả phù hợp với mục đích đã được minh định của Thượng Đế nội tâm. Đó là sự tỏa chiếu của Ngôi Hai của Đại Ngã, Vishnu, hay trạng thái kiến tạo hình hài, đó là đặc tính quan trọng nhất của linh hồn trên cảnh giới riêng của linh hồn. Hãy suy gẫm kỹ điều này.

c/ Tham thiền để đạt được mục đích của Chân Ngã. Nhờ thiền định như thế, trạng thái thứ nhất ngày càng vượt trội và ý chí hữu thức của Thượng Đế nội tại mới có thể tự biểu lộ ở cõi trần.(ĐĐNLVTD, 156–157)

+ Tỷ KheoTỳ KheoKhất SỹTăng SỹTỷ khâu: Người xuất gia và quy y, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lý giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ có nghĩa là một tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lãnh giới luật. Gần tương đương với thuật ngữ Sa-môn. Trong luận giải về kinh Kim cương, Đại sư Tông Mật đã đưa ra 3 định nghĩa về thuật ngữ Tỉ-khâu:
Bố ma: “mối lo sợ của ma quỷ”;
– Khất sĩ; “sống bằng hạnh khất thực”;
– Tịnh giới: “giới luật thanh tịnh”. (Xem nguồn)

+ Các PhápGiữ giới:
* Tỷ-kheo thành tựu 5 pháp đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc
1- Vị Tỷ-kheo có giớiGiữ giới: Sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận, và học tập trong các học pháp;

2- Là bậc nghe nhiều, giữ gìn điều được nghe, tích tập điều được nghe, đối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, đối với các pháp như vậy, được nghe nhiều, được thọ trì, đã được ghi nhớ nhờ đọc tụng, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến;

3- Đối với Bốn niệm xứ, tâm khéo an trú; vị ấy sống tinh cần tinh tấn đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp;

4- Có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập thuộc bậc Thánh vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau.

5- Vị ấy suy nghĩ như trên: “Ta có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, (Cả 4 đề mục) …. tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc?”

* Tỳ kheo thành tựu 5 pháp thì đáng được cung kính, tôn trọng, cúng dường, chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Ngược lại thì không xứng đáng:
1. Biết nghe: Khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết được thuyết giảng, nhiệt tâm, tác ý, hoàn toàn chú tâm lắng tai nghe pháp

2. Biết sát hại: Đối với các dục tâm đã khởi lên, không có gìn giữ, nhưng từ bỏ, gột sạch, làm cho hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu; đối với sân tầm đã sanh…đối với các hại tầm đã sanh…đối với các pháp ác, bất thiện đã sanh hay chưa sanh, không có gìn giữ nhưng từ bỏ, gột sạch, làm cho hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu

3. Biết phòng hộ:
– Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung – tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được bảo vệ, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn.
– Khi tai nghe tiếng…khi mũi ngửi hương…khi lưỡi nếm vị…khi thân cảm xúc…khi ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung – tướng riêng.
– Khi ý căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn

4. Biết kham nhẫn: Tỷ-kheo kham nhẫn lạnh, nóng, đói khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, những cách nói mạ lỵ, phỉ báng, các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, nhói đau, chói đau, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người.

5. Biết đi đến: Tỷ-kheo, phương hướng nào trước kia chưa từng đi, tại đây mọi hành được chỉ tịnh, mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt, ly tham, hoại diệt, Niết-bàn, vị ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng
(Xem phẩm Vua – Tỷ Kheo):

+ Đệ tử nhập môn: Thuật ngữ đệ tử nhập môn bao hàm giai đoạn điểm đạo thứ nhất và thứ hai; khi được điểm đạo lần ba, vị này không còn là đệ tử nhập môn theo nghĩa chuyên môn nữa nhưng vẫn ở trong nhóm của Chân Sư cho tới khi điểm đạo lần 4. (ĐĐTKNM–I, 728)
* Giai đoạn đệ tử nhập môn: Tùy theo nhu cầu, Chân Sư tiếp xúc với đệ tử qua:
a/ Kinh nghiệm của một giấc mơ sống động.
b/ Một giáo huấn biểu tượng.
c/ Dùng một hình tư tưởng của Chân Sư.
d/ Tiếp xúc trong lúc tham thiền.
e/ Cuộc hội kiến được nhớ rõ trong Huyền Viện của Chân Sư
* Giai đoạn đệ tử trên tuyến (“chela on the thread or Sutratma): Trong giai đoạn này, nhờ đã chứng tỏ được sự minh triết của mình trong việc làm và cách đánh giá của mình về vấn đề của Chân Sư, vị đệ tử được dạy cho cách thức (trong lúc khẩn cấp) thu hút sự chú tâm của Chân Sư và nhờ thế rút được sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là diễn biến nhanh chóng và trong thực tế không làm mất thì giờ của Chân Sư.
Xem phẩm Vua – Tỷ Kheo
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết – Tâm Linh Tu Hành
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Các cấp hay bậc Đệ tử:
1. Người tìm đạo là đệ tử của các đệ tử cấp thấp.
2. Đệ tử dự bị, là đệ tử của các đệ tử cao cấp.
3. Đệ tử chính thức là đệ tử của vị cao đồ và của Chân Sư.
4. Vị cao đồ là đệ tử của Chân Sư.
5. Một Chân Sư là đệ tử của vị Mahatma (Đại Chân Sư, Đại Thánh).
6. Các vị Mahatmas là đệ tử của các đệ tử điểm đạo cao siêu.
7. Đến lượt các vị này là đệ tử Đức Christ hay của các Đấng Cao cả đứng đầu các bộ môn giáo huấn.
8. Các Đấng lãnh đạo bộ môn giáo huấn là đệ tử của Đấng Chưởng Quản Địa Cầu.
9. Đấng Chưởng Quản Địa Cầu là đệ tử của một trong ba Hành Tinh Thượng Đế tiêu biểu cho ba ngôi chính.
Các Đấng này lại là đệ tử của Đức Thái Dương Thượng Đế.  (ASCLH, 50, 51)

+ Một số Phẩm tính là Đặc điểm của Người Đệ tử (Nguồn: MQ chủ đề 5, tr3):

Khi hòa hợp với Linh hồn, tâm thức của người đệ tử mở mang rộng lớn, với những tia chớp hiểu biết và thấu ngộ. Y bắt đầu biết đến các khả năng và quyền lực (những rung động và hiện tượng tế vi) cho dù có thể y chưa kiểm soát được chúng một cách thông minh. Trong giai đoạn này thể trí chế ngự và kiểm soát các mãnh lực của phàm ngã. Vì thế mà có sự tập trung vào trí tuệ nhiều hơn cũng như khả năng tiếp nhận các ý tưởng và ấn tượng từ cấp độ của linh hồn. Với tính cách một phàm ngã tích hợp dưới ảnh hưởng của linh hồn, y trở thành một sức mạnh được thừa nhận trên thế giới và được công nhận là người đáng tín nhiệm trong phụng sự. Những người khác đến với y để được trợ giúp và nâng đỡ. Phụng sựyếu tố chính trong sự biểu lộ của linh hồn, với động lựcnguyện vọng hiến mình trợ giúp kẻ khác. Y không còn tập trung vào phàm ngã của mình. Đây là sự biểu lộ của tình thương một cách vô điều kiện đối với gia đình, tập thể, hoặc nhân loại nói chung. Phụng sự là kết quả sức thôi thúc của linh hồn, là kỹ thuật phát triển tập thể, cho thấy chúng ta có thể hiểu biết và hợp tác với Thiên cơ.

Cố gắng lập hạnh tiếp tục, được tăng cường nhờ ánh sáng chói rạng của linh hồn. Hòa hợp với linh hồn là một tiến trình chậm chạp, được đẩy nhanh hơn qua tham thiềnphụng sự.

– 8. Các đệ tử (EP II 207)

Những linh hồn có trí thông minh và bản chất bác ái đang trở nên thức tỉnh và được tích hợp đến nỗi họ có thể bắt đầu đặt chân lên Con Đường Đệ Tử … các nhà thần bí thực tế, hoặc các nhà huyền bí, của thời hiện đại.

[Sự thích ứng với thế giới] 7 … sự thích ứng hoàn toàn vô kỷ với nhu cầu và mục đích tập thể. Những người đã đạt đến trình độ này trong quá trình tiến hóa của họ không còn tập trung vào cuộc sống phàm ngã riêng của họ. Trọng tâm của sự chú ý trí tuệ của họ là vào linh hồn và vào thế giới của linh hồn … Những người phụng sự này vốn là các biểu hiện của sự tỏa sáng và năng lực thu hút của linh hồn, là những người hiểu biết Thiên Cơ, và trong mỗi tổ chức, họ kiến tạo nhóm những người Phụng sự Thế Gian mới và tăng trưởng dần dần. Sự cứu rỗi thế gian nằm trong tay của họ.(GQ1.1, tr 24,Trích dẫn TLHNM)

Các Đệ tử: Họ bận rộn với sự hội nhập của phàm ngã với linh hồn. Các đệ tử được phân cấp trong chừng mực sự sống phàm ngã của chính họ ra đi. Khi linh hồn thâm nhập và kiểm soát phàm ngã, khi đó và chỉ khi đó, phàm ngã mới đủ tiêu chuẩn đối với ý nghĩa đích thực của nó. Điều này là để tạo thành mặt nạ của linh hồn, cái vốn là vẻ bề ngoài của các mãnh lực tinh thần bên trong. Tiêu điểm của sự chú ý trí tuệ là vào linh hồn và vào thế giới của các linh hồn. Những người phụng sự này, vốn là sự biểu lộ vẻ huy hoàng và năng lực thu hút của linh hồn, là những người hiểu biết Thiên Cơ, và trong mỗi tổ chức, họ thành lập nhóm Người Phụng sự Thế giới mới và đang dần dần tăng trưởng. Sự cứu rỗi thế gian nằm trong tay của họ. Nguồn: ( GQ1.Con ngườitâm thức)

+ Kiếp sống của một đệ tử: Các kiếp sống của một đệ tử thường thường là các kiếp sống đầy bão tố và căng thẳng, cốt để cho các đặc tính (qualities), vốn dĩ chỉ tiến hóa một cách bình thường theo một chuỗi dài các kiếp sống trong ba cõi thấp, có thể được thôi thúc trong y thành sự phát triển nhanh chóng và mau đưa đến hoàn thiện.
Khi vị đệ tử dao động (alternate) một cách mau lẹ từ vui tươi sang phiền muộn, từ bình lặng sang bão táp, từ nghỉ ngơi sang làm việc cật lực, đệ tử sẽ học được cách nhìn thấy các hình thái giả tạm (unreal forms) trong các thay đổi này, và xuyên qua vạn hữu, học được cách cảm nhận được một sự sống ổn định bất biến. Vị đệ tử trở nên lãnh đạm đối với việc còn (presence) hoặc mất (absence) của các sự vật thoạt đến thoạt đi như thế, đồng thời y ngày càng chú tâm vào cái thực tại bất biến thường hằng. (MTNX, 328)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạoĐiểm đạo

+ Điểm Đạo: Dù nhận điểm đạo trong Capricorn, con người là một Điểm đạo đồ trước khi được điểm đạo, đây là bí ẩn của cuộc điểm đạo (CTHNM, 258)

+ Các cuộc điểm đạo (Theo GQ1-Cấu tạo con người ) :
Đầu Tiên – “Sự Sinh ra ở Bethlehem”: sự kiểm soát của Ego hay Linh Hồn đối với thể xác đã phải đạt đến một mức độ thành tựu cao. “Tội lỗi của xác thịt,” phải được thống trị; tính háu ăn, thói nghiện rượu, và sự đa dục phải không còn thống trị. Nhu cầu của Tinh linh vật chất sẽ không còn được tuân theo; sự kiểm soát phải hoàn toàn và sự quyến rũ đã hết. Một thái độ chung về sự tuân phục Chân Ngã phải được đạt đến, và sự sẵn lòng vâng lời phải rất mạnh.
Thứ Hai – “Lễ Rửa Tội ở sông Jordan”: nó tạo thành bước ngoặt trong việc kiểm soát thể cảm dục. Việc kiểm soát thể cảm dục được thể hiện tương tự như trên.
Thứ Ba – “Sự Biến Hình”: điểm đạo đồ học cách kiểm soát hiện thể trí tuệ của mình và có được sự chủ trị trên bốn cõi phụ thấp trong ba cõi của tam giới.
– Thứ Tư – ” Sự Tử Bỏ”. Tại thời điểm này, hoa sen chân ngã vỡ tan, và Thái Dương Thiên Thần rời đi. Cây cầu trong tâm thức giữa Chân Thầncon người đã được thành lập thông qua Antahkarana, và từ thời điểm này trở đi, chính Tia Linh Quang Chân Thần, hoặc Bản Lai Diện Mục của Thượng Đế, hoạt động qua con người.

Cuộc điểm đạo 5Sự Khải HuyềnĐáy xương sốngCõi Atma
Cuộc điểm đạo 6Sự Quyết địnhLuân xa cổ họngCõi Chân Thần
Cuộc điểm đạo 7Sự Phục SinhLuân xa đầuCõi Thượng Đế
Cuộc điểm đạo 8Sự Chuyển TiếpThánh ĐoànBảy Thánh Đạo của Hành tinh
Cuộc điểm đạo 9Sự Khước TừShamballaBảy Thánh Đạo của

+ Các Điểm đạo đồ (EP II 207): Những linh hồn được kết nạp vào những bí pháp của Thiên Giới … vốn không chỉ ý thức về phàm ngã tích hợp … … về bản thân họ là linh hồn, mà còn biết vượt qua mọi tranh cãi, rằng không có việc như là “linh hồn của tôi và linh hồn của anh”, mà chỉ là “Đại Hồn”. Họ biết điều này không chỉ như là một định đề trí tuệ, và như là một thực tại được cảm nhận, mà còn là một thực tế trong ý thức riêng của họ.(GQ1.1, tr 24,Trích dẫn TLHNM)
Chín bậc điểm đạo đồ. Ở giai Sự ĐỒNG NHẤT HÓA với Chân Ngã đang xảy ra. Điều này khiến họ làm việc với Thiên Cơ và đưa việc phụng sự Thiên Cơ vào hiện thực, là mục tiêu của điểm đạo của Thánh Đoàn. Họ thông hiểu, thể hiện và làm việc với Thiên CơNguồn: ( GQ1.Con ngườitâm thức).
Tại Địa cầu chúng ta, Đoàn thể đó gọi là Quần Tiên Hội hay là Thiên Đình và ngôi thứ (Xem nguồn – Chương 5):
1.) Chúa tể là Đức Ngọc Đế được 9 lần điểm đạo.
2.) Những vị Phật. Hiện giờ có 4 vị Phật được 8 lần điểm đạo là 3 vị Độc Giác Phật và một vị Phật Đạo Đức là Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Thích Ca.
3.) Dưới Phật là ba vị Tam Thanh được 7 lần điểm đạo. Đức Bàn Cổ – Đức Bồ Tát – Đức Văn Minh Đại Đế.
4.) Dưới Tam Thanh là 7 vị Đế Quân được 6 lần điểm đạo.
5.) Dưới Đế Quân là những vị Chơn Tiên (Chân Sư) được 5 lần điểm đạo.
6.) Dưới Chơn Tiên là 4 hạng đệ tử:
– Những vị La Hán được 4 lần điểm đạo.
– Những vị A na hàm được 3 lần điểm đạo.
– Những vị Tư đà Hàm được 2 lần điểm đạo.
– Những vị Tu đà Huờn được 1 lần đểim đạo.

+ Tâm thức điểm đạo đồ: 8. Ở giai đoạn này, Sự ĐỒNG NHẤT HÓA với Chân Ngã đang xảy ra. Điều này khiến họ làm việc với Thiên Cơ và đưa việc phụng sự Thiên Cơ vào hiện thực. Điều này luôn là mục tiêu của các thành viên được điểm đạo của Thánh Đoàn. Họ thông hiểu, thể hiện và làm việc với Thiên Cơ.

+ Điểm đạo trượng (Rod of Initiation, Huyền lực trượng) – Có 4 loại
1/ Loại Vũ Trụ, được một vị Vũ Trụ Thượng Đế sử dụng để điểm đạo cho một vị Thái Dương Thượng Đế  và ba vị Hành Tinh Thượng Đế chính yếu.
2/ Loại Thái Dương Hệ, được một vị Thái Dương Thượng Đế sử dụng để điểm đạo cho một Hành Tinh Thượng Đế.
3/ Loại Hành Tinh, được một vị Hành Tinh Thượng Đế sử dụng trong các cuộc điểm đạo chủ yếu thứ ba, thứ tư và thứ  năm, cùng với hai cuộc điểm đạo cao hơn.
4/ Loại Thánh Đoàn, được Thánh Đoàn sử dụng cho các cuộc điểm đạo nhỏ và cho hai cuộc điểm đạo đầu tiên trên cõi trí do Đức Bồ Tát chủ trì.
Tất cả các Điểm Đạo Trượng đều tạo ra các hiệu quả:
1. Kích thích các tiềm hỏa (latent fires) cho đến khi các lửa này cháy bừng.
2.Tổng hợp các luồng hỏa qua một tác động huyền linh, việc này đưa các luồng hỏa vào trong phạm vi của nhau.
3. Làm tăng mức rung động của một bí huyệt nào đó, dù là trong con người, một Hành Tinh Thượng Đế hay một Thái Dương Thượng Đế.
4. Mở rộng tất cả các thể, nhưng đầu tiên là linh hồn thể.
5. Khơi dậy luồng hỏa hậu (tức là lửa ở đáy xương sống) và giúp nó đi lên. Luồng hỏa này và luồng hỏa của thể trí được hướng dẫn theo một số đường – hoặc các tam giác – bằng cách đi theo Điểm đạo Trượng khi nó di chuyển theo một cách thức đặc biệt.  (ĐĐNLVTD, 126–128)
– Các Điểm Đạo Trượng được sạc bằng Fohat, do đó, chúng mới có tác dụng.(LVLCK, 213)