Con người nghĩ trong Tâm như thế nào thì y sẽ như thế ấy
Số Mệnh là có, đó là Luật Nhân Qủa, biểu hiện qua quy luật Thời gian, đến thời điểm hội tụ đủ Nhân Duyên, là lúc Bạn nhận lãnh Quả báo, dù là Quả tốt hay xấu bạn buộc phải nhận nếu bạn không Tu Tâm Dưỡng Tánh như Đức Phật dạy - Sách Liễu Phàm Tứ Huấn là nghiệm chứng học Phật sửa Mệnh tuyệt đỉnh nhân gian
Căn cứ ngày, tháng, năm sinh người ta có thể dự đoán được Vận Mệnh mỗi người. Số Mệnh có thể thay đổi được
Cải Mệnh đỉnh nhất= Xin thường niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, do đó nói Đức năng thắng Số Mệnh= Luôn đúng
Chết không phải là hết, Linh hồn luôn luân hồi và Trường tồn =>
Rất cần luôn vui vẻ nhận lãnh Quả báo dù tốt hay xấu đến đâu và chuẩn bị tốt cho cái chết để Tái sinh hiển nhiên có được kiếp sau tốt đẹp hơn.
Hào Tử Tôn Thân Kim trì Thế, biến thành Ngọ Hỏa hồi đầu khắc, như vậy là bản thân cùng con cháu đều bị khắc. Hào lục Tài Tý Thủy động hóa Thổ hồi đầu khắc Thủy, Tài là tượng trưng cho thê thiếp nô bộc, nên chủ về cả nhà bị hại, cần nhanh chóng chuyển đi chỗ khác.
Người này bèn hỏi rằng: " Nếu sửa đổi hướng cổng, liệu có tránh được tai họa không?
Ta bèn đáp : "Không thể ! Vì phạm kỵ hồi đầu khắc bản thân mình, đến mùa hạ Hỏa vượng, ắt gặp tai họa"
Nhà người này nằm ở bên sông Hoàng Hà, vì chần chừ chưa chuyển, sang tháng Ngọ vỡ đê, cả nhà chín người trôi theo sóng nước. Ứng vào tháng Ngọ là Hỏa thịnh, khắc Thế khắc Tử, lại xung Tý Thủy Thê Tài, chủ về cả nhà gặp họa
Thân Kim Huynh hào làm Dụng Thần, Tỵ Hỏa Quỷ Động, hình khắc Thân Kim, là trọng tội định rồi. May có ngày Thìn xung động Phụ Tuất Thổ, Phụ Tuất ám động sinh Huynh Thân, khắc xứ phùng sinh. Nếu có Phụ Mẫu thì cứu được.
Sau nhờ có cha già bát tuần (80 tuổi), viện lệ xin ân xá, được khỏi chết.
Quẻ Ngoại Mùi Thổ Phụ Mẫu, bị tháng Mão khắc. Quẻ trong, Hợi Mão Mùi, hiệp thành Mộc Cục, lại tương khắc chế Tháng khắc, toàn không có gì cứu trợ. Quả bị trọng hình.
Cũng đồng một ngày, em gái chiếm cho anh, về quan sự, đồng một án đó, cũng định trọng tội rồi. Đặng quẻ Thiên Địa Bỉ, biến ra Thiên Thuỷ Tụng.
Thầy thuốc mang quẻ này đến hỏi rằng: " Người nọ mắc bệnh rất hiểm nghèo, nên tôi bảo người bệnh gieo quẻ xem uống thuốc có chữa được hay không?
Quẻ này nguyệt kiến Tỵ Hỏa, hào Ứng là Ngọ Hỏa sinh hào Thế Mão Mộc, chủ về chữa khỏi được, tại sao uống thuốc đều không có tác dụng?"
Ta bèn đáp rằng: " Ý tứ của quẻ này rất rõ ràng, chẳng qua là anh xem sai. Xem về thuốc thang cần lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần, lấy hào Phụ Mẫu làm Kỵ thần. Quẻ này Hợi Thủy là Tử Tôn, gặp nguyệt phá mà vô căn, được nhật thần Thân tương sinh cũng không sinh khởi được, hào Thế là Phụ Mẫu lại khắc Tử Tôn. Như vậy gọi là Phụ Mẫu trì Thế, có thuốc thần cũng khó chữa, như vậy uống thuốc làm sao có tác dụng được? Chẳng phải quẻ không chính xác mà do anh suy đoán không đúng mà thôi.
- Bệnh mới phát gặp xung thì mạnh. Quẻ này thuộc về quẻ lục xung. - Nhưng cha tôi đau nặng lắm, xin Thầy coi ngày nào mạnh? - Trong quẻ này, Thìn Thổ, Mùi Thổ, Tuất Thổ, ba từng Phụ Mẫu là ba hào Thổ, phải chọn hào nào vượng mà dùng. Nay Thìn Thổ Phụ Mẫu, trúng Nguyệt Kiến (tức hào Thìn gặp tháng Thìn), tức là dùng Thìn Thổ làm Dụng Thần. Hiện giờ bệnh trầm trọng là vì ngày Thân xung Dần Mộc thành ám động, Mộc động để khắc Thìn Thổ.
Khách liền hỏi:
- Trong quẻ Ngọ Hỏa phát động, Dần Mộc tuy cũng ám động, mà trở lại sinh Ngọ Hỏa, thành ra sinh Thìn Thổ. Kinh Bốc nói: "Kỵ Thần và Nguyên Thần đồng động, thì lưỡng sinh (hai chỗ sinh). Nay thầy chỉ nói: "Dần Mộc khắc Thìn Thổ, mà chẳng nói: "Ngọ Hỏa sinh Thìn Thổ, là tại sao? - Ngọ Hỏa tuy động hóa ra Mùi Thổ, Ngọ Hỏa và Mùi hạp. Ngọ Hỏa tương hạp, chẳng sinh Thìn Thổ, cho nên Thìn Thổ bị Dần Mộc khắc, chẳng đặng Ngọ Hỏa sinh. Cho nên bệnh thế rất trầm trọng. Phải chờ ngày Sửu xung trừ Mùi Thổ, thì Ngọ Hỏa hết hạp, mới có thể sinh Thổ. Chừng đó tai nạn sẽ thối.
Lấy hào Tử Tôn Thân Kim làm Dụng thần, được nguyệt kiến sinh, bị nhật thần khắc, nên có thể dùng để đối địch, loại trừ lẫn nhau. Nhưng hiềm vì lại bị hào động Ngọ Hỏa khắc, may nhờ Ngọ hợp với Mùi, trước mắt không có gì đáng ngại. Nhưng phòng ngày Sửu xung mất Mùi Thổ, khiến Hỏa tổn thương đến Kim, ắt sẽ gặp nguy. Sau quả con trai chết vào ngày Sửu.
Lý Ngã Bình bàn rằng: Các sách đều cho rằng khi nguyệt tướng đương quyền, gặp tuần không cũng không bị không, gặp tổn thương cũng vô hại. Nhưng trong sách này, Dã Hạc lão nhân lại đề cập đến vấn đề khắc thêm (tăng khắc), hào dù nguyệt tướng, nhưng bị hào khác khắc thêm, lâm tuần không vẫn là không, bị tổn thương vẫn tổn thương. Đây là một điểm cực kỳ sáng suốt, có thể coi là khuôn mẫu. Sách "Dịch mạo" nói rằng, được nhật thần khắc bị nguyệt kiến sinh là được tám phần sinh; bị nguyệt kiến khắc nhật thần sinh là được bảy phần sinh. Vậy dựa vào đâu để xác định bảy phần hay tám phần ?
Lấy hào Huynh Đệ Dậu Kim làm Dụng thần, bị nguyệt lệnh khắc, được nhật kiến sinh, nên vô sự, vào giờ Mão ngày hôm sau sẽ sinh. Quả nhiên sinh vào giờ Mão ngày hôm sau, được mẹ tròn con vuông. Ứng vào giờ Mão, là vì Dụng thần Dậu Kim và nhật thần Thìn tương hợp. Trong "Hoàng kim sách" có viết: " Nếu gạp hợp, phải đợi xung khai". Đây chính là trường hợp bị nguyệt kiến khắc, được nhật thần sinh, mà không bị hào khác khắc chế hay phù trợ thêm
Hào Dậu Kim Huynh Đệ làm Dụng thần, bị nguyệt kiến Ngọ Hỏa khắc, được nhật thần Mùi sinh, nên có thể đối địch lẫn nhau. Nhưng hiềm vì gặp hào động Ngọ Hỏa tương khắc, tức là bị hào khác khắc chế thêm.
Người xem liền hiểu rằng: " Liệu có nguy hiểm lắm không?"
Ta bèn đáp rằng: " Ngọ Hỏa là nguyệt kiến, lại động trong quẻ này, như vậy gọi là nguyệt kiến nhập quẻ, càng thêm cương cường. Lại cũng chính là trường hợp nguyệt kiến làm Kỵ thần, tai họa ắt không nhỏ, đây là tượng đại hung."
Người đó lại hỏi hung đến vào lúc nào.
Ta bèn đáp rằng:" Hào Huynh Đệ Dậu Kim hóa Thoái thần, năm nay năm Thìn, tương hợp với Thái Tuế, tự nhiên không có gì đáng ngại. Nhưng sợ rằng đến năm Thân sẽ không thoát được."
Quả nhiên người em trai năm đó bị hạ ngục, đến năm Thân thì bị kết án tử hình
Hào Quan Quỷ Dần Mộc trì Thế, gặp nguyệt kiến nên là vượng tướng. Tuy bị nhật thần Thân xung khắc, nhưng may được Thân, Tý, Thìn hợp thành Tam hợp Thủy cục để sinh Quan, không những vô hại, mà vào tháng ba sẽ thăng tiến. Sau quả nhiên tháng ba được thăng chức đi Vân Nam. Sở dĩ được ứng nghiệm thăng chức, là vì được Thủy cục sinh phò. Ứng nghiệm vào tháng ba, vì đó là tháng Thìn Thổ xuất không. Ứng nghiệm vào Vân Nam, là do Thế và Quan tinh đều nằm tại hào lục.
Thế nằm tại hào Quan Quỷ gặp nguyệt kiến, chắc chắn sẽ được yết kiến. Nhưng lại bị Ngọ Hỏa hồi đầu khắc, cần phải đợi đến ngày Tý để xung đi Ngọ Hỏa, mới được yết kiến. Về sau, quả được yết kiến vào ngày Bính Tý. Nên mới nói rằng: Gặp tổn thương vẫn tổn thương, nhưng vẫn có thể chờ thời để hữu dụng.
Nếu gặp tuyệt tại nhật thần, bị nhật thần xung, khắc, đều phải quan sát xem có được sinh trợ ở chỗ khác hay không
Hóa tuyệt, hóa mộ, hóa khắc, cần đề phòng bị hào khác khắc chế thêm.
Hào gặp nguyệt kiến mà hóa tuyệt, hóa mộ tại nhật thần, hoặc bị nhật kiến xung khắc, vẫn có thể đối địch được, là tượng không cát cũng không hung. Nếu lại được hào động khác sinh phò, thì càng là điềm tốt. Chỉ sợ bị hào khác khắc chế thêm, thì Dụng thần tuy gặp nguyệt kiến, cũng khó mà địch lại được.
Bèn đoán rằng : Hào Tài Dần Mộc là Dụng thần, hào Tài khắc hào Thế, nên tiền tài sẽ được. Thế nhưng trước mắt vẫn là tuần không, phải đợi đến tháng Giáp Dần, xuất không sẽ đắc tài. Quả nhiên đến ngày Giáp Dần được của. Người xưa cho rằng lâm nguyệt kiến gặp tuần không cũng không bị không, là sai. Nếu trong tuần, vẫn là không vong, cần phải đợi ra khỏi tuần đó là tuần, mới không còn là không nữa.
Gặp không vẫn là không, nhưng không phải là không triệt để.
Gặp tổn thương vẫn bị tổn thương, nhưng vẫn có thể chờ thời để hữu dụng.
Bởi vậy khi Dụng thần gặp tuần không, không nên lập tức cho rằng không bị không, mà vẫn là không vong. Thế nhưng chỉ là không vong ở trong tuần hiện tại. Đợi đến ngày xuất không, sẽ còn không còn không nữa. Nếu là Kỵ thần, xuất không sẽ gặp họa. Nếu là Nguyên thần, xuất không sẽ là phúc. Đây không phải là cái chân không hưu tù, không triệt để.
Hào gặp nguyệt kiến, là vượng tướng. Hoặc bị hào khác khắc, là bị tổn thương.
Nếu xem về bệnh tật, thì bệnh trước mắt vẫn không thuyên giảm; Nếu xem về sự việc, việc trước mắt sẽ không thành. Phải đợi đến ngày xung mất hào gây tổn thương, thì sẽ không phải chịu thương hại đó nữa. Khi đó, xem về bệnh bệnh sẽ khỏi ; Xem về sự việc, sự việc sẽ thành. Nên mới nói rằng: Gặp tổn thương vẫn bị tổn thương, nhưng vẫn có thể chờ thời để hữu dụng.
Bèn đoán rằng : Nguyệt kiến tại Thìn Thổ, tuy khắc Huynh Đệ Hợi Thủy, nhưng nhờ được nhật thần Thân tương sinh, lại được hào động Thân Kim tương sinh, nên tuy nguy kịch, sau vẫn được cứu. Quả nhiên đến giờ Dậu ngày đó, gặp được danh y cứu chữa, đến ngày Kỷ Hợi đã khỏi hoàn toàn