Tóm Lược Kinh Nhân Quả Thiện Ác


Chia sẻ:

TÓM LƯỢC ĐỨC PHẬT DẠY
KINH PHÂN BIỆT THIỆN ÁC BÁO ỨNG

+ Xem nguồn:

1. Kinh Nhân Quả Thiện Ác:  Đức Phật dậy trưởng giả Du ca. Đã ghi nhớ khá đầy đủ trong bảng kê dưới đây. Nội dung về Thiện Ác thiện ác nhân quả của một số thập thiện và Bố thí

2. Kinh Thập thiện nghiệp đạo: Đức Phật thuyết giảng cho Long Vương nghe. Đã ghi nhớ khá đầy đủ ở Bảng kê dưới đây. Nội dung chủ yếu về Nhân quả thù thắng của Thập thiện nghiệp đạo

3. Phật thuyết Kinh nhân quả thiện ác: Đức Phật dạy Anan về Kinh Nhân quả thiện ác (Đã có fai đọc kinh). Phật dạy chi tiết về nhân quả và giầu nghèo hay đọa lạc đường ác, hay sanh cõi lành. Hiện chưa đưa vào đây vì rất dài. Xin xem bài tại đường dẫn. Trong Kinh còn có hướng dẫn lễ lạy Tam bảo và truyện về Nhân quả.

+ CÔNG ĐỨC BỐ THÍ: Trích Phật thuyết giảng cho Long vương rằng: Nếu có Bồ tát y thiện nghiệp ấy, trong khi tu đạo

– Lìa nghiệp giết hại mà hành bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, trường thọ không yểu, chẳng bị tất cả oan giặc làm hại.

– Lìa nghiệp chẳng cho mà lấy, thực hành bố thí thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, không ai sánh kịp, đều hay nhóm họp kho báu Phật pháp.

– Lìa lỗi tà hạnhbố thí, thường giàu của báu không ai chiếm đoạt; trong nhà trinh thuận, mẹ và vợ con, không ai đem lòng dục mà xâm phạm.

– Lìa lời nói dối mà làm bố thí, thường giàu của báu không ai chiếm đoạt, khỏi các hủy báng, thâu giữ chánh pháp, như lời thệ nguyện, chỗ làm thỏa mãn.

– Lìa lời nói chia rẽ (hai lưỡi) mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, quyến thuộc hòa thuận, đồng vui một chí, thường không trái chống.

– Lìa lời nói thô dữ mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm chiếm, tất cả chúng hội hoan hỷ quy y, nói ra đều tín thọ, không ai trái nghịch.

– Lìa lời nói vô nghĩa (ỷ ngữ) mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm chiếm, nói chẳng uổng lời, người đều kính chịu, hay dùng phương tiện, khéo dứt các ngờ vực.

– Lìa lòng tham cầu mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt có được vật gì đều đem ban cấp, tín giải kiên cố, đủ oai lực lớn.

– Bỏ lòng giận hờn mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt, mau tự thành tựu, tâm trí vô ngại, các căn tốt đẹp, người thấy kính ưa.

– Xa lìa lòng tà đạo mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt, thường sanh vào nhà kính tin chánh pháp, thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng, thường chẳng quên mất lòng đại bồ-đề. Ấy là bậc đại sĩ trong khi tu bồ-tát đạo, làm mười nghiệp lành, dùng bố thí trang nghiêm mà được lợi lớn.

* Bố thí để diệt trừ lòng tham lam, sẽ được hưởng quả báo giàu có, của cải không còn nghèo thiếu; nhưng nếu lòng bố thí không thanh tịnh, hoặc hành vi ác chưa dứt sạch hẳn, thì tuy có nhiều của báu cũng không hưởng thọ được lâu dài và tự tại.

* Nếu phát tâm bồ-tát y theo 10 nghiệp thiện mà tu hành bố thí, thì hình dung đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, bà con hòa thuận, có nhiều của báu không ai sánh kịp; mà cũng không có người nào dám đem lực lượng gì để chiếm đoạt; ta lại được mọi người kính mến quy thuận ủng hộ: đó là nhờ công đức tu hành thập thiện mà bố thí, mới được viên mãn trang nghiêm, lợi ích rất lớn vậy.

Trái lại như vì lòng sân hận khinh khi nhau, hoặc vì mua danh mà làm việc bố thí, hoặc vì ngu si tà kiến sai lầm, người đáng cho thì không cho, người không đáng cho lại cho, hoặc thiên vị cho người này không cho người khác, như thế gọi là điên đảo sai lầm làm việc bố thí, không thể nào viên mãn được. Dù có quả báo tốt, về sau cũng không cứu cánh.

BẢNG TỔNG HỢP VỀ NHÂN – QUẢ
(Tóm tắt và lập bảng để tiện học và so sánh dựa trên Kinh văn)

TTQuả Báo Hung DữNghiệp DữNghiệp lànhQuả Báo Thiện Lành
Chết yểuNghiệp sát có mười loại:

1. Tự tay giết.
2. Khuyên người khác giết.
3. Thấy giết thì hoan hỷ.
4. Tùy hỷ việc giết.
5. Giết bào thai.
6. Khuyên trục thai cho chết.
7. Oán thù mà giết.
8. Giết bằng cách đoạn nam căn.
9. Bằng phương tiện giết.
10. Sai người giết.

Xa lìa nghiệp sát có mười loại:

1. Xa lìa việc tự tay giết.
2. Xa lìa việc khuyên bảo người giết.
3. Xa lìa sự hoan hỷ khi (thấy) giết.
4. Xa lìa việc tùy hỷ giết.
5. Cứu người hình ngục bị giết.
6. Phóng sanh mạng.
7. Bố thí sự không sợ cho kẻ khác.
8. Thương xót vỗ về người bệnh.
9. Bố thí đồ ăn uống.
10. Cúng dường tràng phan, đèn đuốc.

Trường Thọ
Nhiều bệnhNghiệp xấu – Bị nhiều bệnh

1. Tự hủy hoại loài hữu tình.
2. Khuyên người khác hủy hoại.
3. Tùy hỷ sự hủy hoại.
4. Tán thán sự hủy hoại.
5. Bất hiếu với cha mẹ.
6. Kết nhiều oán xưa.
7. Làm thuốc do tâm độc hại.
8. Keo kiết sự ăn uống.
9. Khinh chê ngạo mạn đối với thánh hiền.
10. Hủy báng pháp sư.

Nghiệp lành – Bị ít bệnh

1. Không gây tổn hại hữu tình.
2. Khuyên người đừng làm tổn hại.
3. Không tùy hỷ sự làm tổn hại.
4. Không tán thán sự tổn hại.
5. Xa lìa việc vui sướng làm tổn hại.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tôn trọng sư trưởng.
8. Không kết oán xưa.
9. Bố thí chúng Tăng được an lạc.
10. Bố thí thuốc men, ẩm thực.

Người Ít bệnh
Xấu XíNghiệp báo Thân Hình Xấu Xí

1. Luôn khởi tâm phẫn nộ.
2. Buông lung tâm ngạo mạn.
3. Không hiếu thuận cha mẹ.
4. Luôn luôn buông lung tâm tham si.
5. Hủy báng hiền thánh.
6. Xâm đoạt, cưỡng bức.
7. Ăn trộm ánh sáng (dầu đèn) của Phật.
8. Cười giỡn trên sự xấu xí của người khác.
9. Hủy hoại ánh sáng của đức Phật.
10. Làm việc phi phạm hạnh.

Nghiệp báo Thân Hình Trang nghiêm

1. Tu từ bi, nhẫn nhục.
2. Bố thí pháp của Phật.
3. Quét dọn chùa tháp.
4. Trang nghiêm tu sửa tinh xá.
5. Trang nghiêm tượng Phật.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tin kính, tôn trọng Thánh hiền.
8. Khiêm cung, xa lìa sự ngạo mạn.
9. Phạm hạnh không sứt mẻ.
10. Xa lìa tâm tổn hại.

Thân thể trang Nghiêm
Sinh vào dòng họ Ti Tiện1. Tham ái sanh lợi, không tu bố thí.
2. Ganh ghét vì sự vinh hoa của người khác.
3. Khinh chê hủy báng cha mẹ.
4. Không tuân lời pháp sư.
5. Hủy báng bậc hiền thiện.
6. Thân cận bạn ác.
7. Khuyên người khác làm ác.
8. Phá hoại điều thiện của kẻ khác.
9. Mua bán kinh tượng.
10. Không tin tam bảo.
1. Xa lìa tâm ganh ghét, vui mừng thấy danh lợi của người khác.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tin kính, tôn sùng Pháp sư.
4. Phát tâm bồ đề.
5. Bố thí dù lọng cho đức Phật.
6. Tu sửa trang nghiêm chùa tháp.
7. Sám hối nghiệp ác.
8. Rộng tu hạnh bố thí.
9. Khuyên người khác tu tập thiện.
10. Tin kính, tôn sùng tam bảo.
Sinh ra trong nhà Hào Quý, Giầu có
Người Gian ác trong nhân gian1. Buông lung tâm ngã mạn.
2. Khinh mạn cha mẹ.
3. Khinh mạn sa-môn.
4. Khinh mạn bà la môn.
5. Khinh chê hủy báng bậc hiền thiện.
6. Khinh mạn người trong thân tộc.
7. Không tin nhân quả.
8. Ghét bỏ tự thân.
9. Hiềm ghét kẻ khác.
10. Không tin Tam bảo.
1. Khiêm cung, xa lìa ngạo mạn.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng sa-môn.
4. Tin kính, tôn sùng bà la môn.
5. Yêu thương, giúp đỡ người thân tộc.
6. Tôn trọng bậc hiền thánh.
7. Tu hành 10 điều thiện.
8. Không khinh mạn bổ đặc già la.
9. Tôn trọng vị Pháp sư.
10. Tin một cách vững chắc ngôi tam bảo.
Người thiện lành/ Thù thắng
Người cô đơn, nghèo khổ1. Luôn luôn trộm cướp.
2. Khuyên người khác trộm cướp.
3. Khen ngợi sự trộm cướp.
4. Tùy hỷ sự trộm cướp.
5. Hủy báng cha mẹ.
6. Hủy báng thánh hiền.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Ganh ghét khi thấy danh lợi của kẻ khác.
9. Keo kiết tiền của.
10. Khinh khi, hủy báng tam bảo, muốn tam bảo thường đói khát.
1. Xa lìa trộm cướp.
2. Xa lìa việc khuyên người trộm cướp.
3. Xa lìa việc tùy hỷ trộm cắp.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Tin kính, tôn sùng thánh hiền.
6. Vui mừng thấy danh lợi của người khác.
7. Rộng làm việc bố thí.
8. Không ganh ghét danh lợi của kẻ khác.
9. Không tiếc tài bảo, thương xót kẻ cô đơn bần cùng.
10. Cúng dường tam bảo.
Người có phước đức lớn (Thiện lành, giầu có, hạnh phúc)
Người trí tuệ ngu độn1. Người này không tin sa-môn, cũng không thân cận sa-môn.
2. Không tin bà la môn.
3. Không tin pháp sư, cũng chẳng thân cận.
4. Cất giấu giáo pháp, không truyền dạy.
5. Xoi bói những điều xấu của pháp sư.
6. Xa lìa chánh pháp.
7. Đoạn diệt thiện pháp.
8. Hủy báng bậc hiền trí.
9. Học tập điều phi pháp.
10. Hủy báng chánh kiến, xưng dương tà kiến.
1. Người này thân cận sa-môn, thâm tín cầu pháp.
2. Tin bà la môn.
3. Thân cận pháp sư, cầu hiểu được nghĩa sâu kín.
4. Tôn trọng tam bảo.
5. Xa lìa kẻ ngu si.
6. Không hủy báng pháp sư.
7. Cầu được trí huệ sâu rộng.
8. Truyền pháp lợi sanh khiến cho chánh pháp không bị đoạn diệt.
9. Xa lìa điều phi pháp.
10. Xưng dương chánh kiến, xa lìa các tà kiến.
Người có trí huệ lớn
Kiếp sau sinh địa ngục1. Thân nghiệp bất thiện.
2. Khẩu nghiệp bất thiện.
3. Ý nghiệp bất thiện.
4. Hằng khởi lên thân kiến.
5. Hằng khởi lên biên kiến.
6. Tà kiến không dứt.
7. Làm ác không ngừng.
8. Dâm dục, tà hạnh.
9. Hủy báng Thánh hiền.
10. Hoại diệt chánh pháp.
Quả báo sinh Súc Sanh1. Thân nghiệp làm ác bậc trung.
2. Ngữ nghiệp làm ác bậc trung.
3. Ý nghiệp làm ác bậc trung.
4. Khởi sanh nhiều lòng tham.
5. Khởi sanh nhiều lòng sân.
6. Khởi sanh nhiều lòng si.
7. Bố thí phi pháp.
8. Cấm chú yểm thuật.
9. Hủy hoại phạm hạnh của Bồ tát.
10. Khởi ra thường kiến, biên kiến, cho rằng “người chết trở lại thành người”.
Quả báo Ngạ qủi1. Thân ác nghiệp nhẹ.
2. Khẩu ác nghiệp nhẹ.
3. Ý ác nghiệp nhẹ.
4. Tham tiếc tài vật không chịu bố thí.
5. Khởi ra đại tà kiến hủy báng nhân quả của Phật.
6. Ngạo mạn, tự thị, khinh khi, hủy báng kẻ hiền lương.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Không thương xót kẻ đói khát.
9. Tham tiếc đồ ẩm thực, không bố thí cho Phật, Tăng.
10. Người khác được danh lợi thì phương tiện làm cho ly cách.
1. Xa lìa sát sanh.
2. Xa lìa sự không cho mà lấy.
3. Xa lìa việc phi phạm hạnh.
4. Xa lìa lời nói hư dối.
5. Xa lìa lời nói tạp uế.
6. Không nói lời ly gián.
7. Xa lìa lời nói thô ác.
8. Xa lìa việc uống rượu, ăn thịt.
9. Xa lìa sự si ám.
10. Xa lìa tà kiến, vững tin tam bảo.
10 nghiệp nhẹ = Quả báo được làm người
Người được sanh cõi Dục thiên? Do tu mười thiện nghiệp được sanh cõi trời ấy.

Người được sanh cõi trời Sắc giới? Do tu mười định thiện mà được sanh cõi trời ấy.

Người được sanh cõi Tứ Vô sắc giới? Do tu tập tam ma bát đố làm nhơn mà được sanh cõi trời ấy. Những gì là tứ? Xa lìa tất cả sắc, là vô biên không tưởng.

Lại nữa, do tu định ấy trừ phục được chướng ngại, sau khi mạng chung được sanh lên Không vô biên xứ, xa lìa thô thức và tế thức hiện tiền, tạo ra Vô biên tưởng, trừ phục được chướng ngại. Lại do tu định ấy nên đời sau được sanh cõi trời ấy. Xa lìa chướng ngại ấy, lại tu định kia, sau khi mạng chung được sanh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Được sanh lên các cõi trời
Người trước bị nghèo khổ, sau được vui sướng?Người do nhân đời trước dùng tâm hạ phẩm bố thí chút ít. Bố thí rồi tâm không hối tiếc, sau lại hoan hỷ, cho nên bổ đặc già la này sanh làm người trong chủng tộc thấp hèn, ăn uống, châu báu, tất cả đều thiếu thốn, cũng không được tự tại. Về sau dần dần tài vật được Tăng trưởng rộng lớn, cho đến có vô số của cải không thiếu vật gì. Cho nên bổ đặc già la này sau khi được quả thì trước bị nghèo khổ, sau được vui sướng.Đó là có một Người ban đầu thực hành bố thí, yêu thích, hoan hỷ, nhưng bố thí rồi tâm lại hối tiếc, cho nên bổ đặc già la ấy sanh ở nhân gian vào nhà thượng chủng tộc, vàng bạc châu báu, voi, ngựa, xe cộ, tất cả đều đầy đủ. Cha mẹ, vợ con, quan dân, tri thức đầy đủ không thiếu, cho đến kho tàng cũng lại như vậy. Cho nên khi được quả báo, trước được vui sướng, sau bị khổ não.Lại do nghiệp gì mà có người trước được vui sướng, sau khi bị khổ não?
Người  trước không vui sướng, sau cũng không vui sướng, mà thường bị khổ não?Người trước không có tâm bố thí, cũng không có bạn hữu tốt khuyên làm bố thí. Đã không có tín tâm, tham tiếc châu báu, từ đầu đến cuối chẳng bố thí một tơ hào nào. Cho nên bổ đặc già la đó nếu sanh làm người, ở trong chủng tộc thấp hèn, bần cùng, khốn khổ, tài bảo, ẩm thực, ruộng nhà, của cải cho đến quyến thuộc tất cả đều thiếu, trước đã không được vui sướng, sau cũng không được vui sướng. Cho nên bổ đặc già la này trước bị khổ não, sau cũng bị khổ não.Người khi chưa bố thí hoan hỷ muốn bố thí. Bố thí rồi hoan hỷ, trước sau không hối tiếc. bổ đặc già la này sanh làm người trong nhà giàu có, chủng tộc cao sang, cha mẹ vợ con, quan dân thân hữu viên mãn cụ túc, kho tàng châu báu voi, ngựa, trâu, dê, chó… đến vườn rừng, ruộng nhà chẳng thiếu thứ gì, tự do thọ dụng. Cho nên bổ đặc già la này trước được vui sướng, sau cũng vui sướng.Lại do nghiệp gì mà có người trước được vui sướng, sau cũng vui sướng?
Người trong đời quá khứ có hướng về ngôi Tam bảo, đã từng bố thí nhưng không từng phát nguyện ở đời vị lai lại tu hạnh bố thí, cho nên bổ đặc già la này sau khi mạng chung, hoặc sanh ở nhơn gian được đại phú quý, được sanh vào đại chủng tộc có nhiều châu báu, voi ngựa, nô tỳ, trâu dê, ruộng nhà cũng rất nhiều, tự do thọ dụng. Nhưng lại đối với tài vật của mình thì tham tiếc, yêu mến bảo hộ, không làm bố thí, cho nên bổ đặc già la này giàu có, nhiều tiền của, tham lam tiếc của, cũng không có tín tâm.Lại do nghiệp gì mà có người được đại phú quý mà lại tham tiếc tiền của, không có bố thí cho ai, dù rất ít?
Người một đời nghèo khổ mà lại tham lam keo kiết, không có bố thí, dù cho rất ít? Người trong đời quá khứ không gặp thiện hữu, lại còn ngu si không tin nhân quả, đối với bố thí ba la mật dù cho chút ít cũng không làm, cho nên bổ đặc già la ấy sau khi mạng chung sanh ở nhân gian, vào chủng tộc bần cùng, tiền của đồ ăn uống, ruộng vườn, của cải, tất cả đều bị thiếu thốn. Vì vậy bổ đặc già la này bần cùng, khốn khổ, không thích bố thí.Người trong đời quá khứ đối với thắng xứ của Tam bảo đã từng tu hạnh bố thí, lại còn phát nguyện: cho đến đời vị lai tâm bố thí vẫn không dứt, sau khi mạng chung sanh ở nhân thiên, qua lại thọ phước. Người ấy về sau phước hết, lại sanh ở nhân gian, dù bần cùng nhưng thích bố thí. Cho nên bổ đặc già la này dù bần cùng nhưng ưa thích bố thí, tín tâm không đoạn.Lại do nghiệp gì mà người một đời nghèo khổ mà lại ưa thích bố thí?
Người ở nhân gian thì bị chết yểu, nhưng sống lâu dài trong tam đồ? Người quá khứ tu nhân, đời này thọ quả lành ít, đời sau thọ quả dữ nhiều, cho nên bổ đặc già la này sanh ở nhân gian bị chết yểu, đời sau sanh vào địa ngục, ngạ quỷ và A-tố-ra thì thọ mạng lại lâu dài.Người tu nhân ở quá khứ, đời này thọ nghiệp ác ít, đời sau thọ nghiệp thiện nhiều, cho nên bổ đặc già la này ở tam đồ thì thọ mạng ngắn ngủi, đời sau sanh ở nhân gian thì thọ mạng lại lâu dài.Tại sao có người ở tam đồ thọ mạng ngắn nhưng ở cõi người thì thọ mạng lâu dài?
Người sanh ở trong ác thú mà thân hình thô rít, hình sắc xấu xí, ai thấy cũng không ưa?Người này ở đời quá khứ tâm nhiều sân hận, không tu nhẫn nhục, đã phá tịnh giới của Phật lại không phát lồ. Cho nên sau khi mạng chung sanh trong loài khác, hình sắc xấu xí, thân thể thô lậu, các căn bị sứt mẻ, hôi thối dẫy đầy, si mê ám muội, ai thấy cũng không hoan hỷ.Người trong đời quá khứ tu tập hạnh nhẫn nhục, nhưng vì phá tịnh giới của Phật nên đọa vào ác thú thọ thân hình khác, được hình sắc đoan nghiêm, mềm mại, cụ túc, ai thấy cũng hoan hỷ.Lại do nghiệp gì mà có Người tuy sanh ở ác thú mà hình sắc thân thể đoan nghiêm thù diệu, ai thấy cũng hoan hỷ? ai cũng yêu thích?
Mười ác nghiệp bị quả báo như thế nào?Do nhân sát sanh nên bị thọ mạng, sắc lực đều không đầy đủ.

Do nhân trộm cắp nên bị sương, mưa đá, sâu trùng, đói khát, hạn hán.

Do nhân tà dục nên bị quả báo bên ngoài nhiều trần cấu, vợ không trinh thuận.

Do nhân hư vọng nên bị quả báo hôi thối ô danh, người đều hiềm ghét.

Do nhân ly gián nên bị quả báo quyến thuộc bất hòa, tật bệnh triền miên.

Do nhân nói thô ác nên bị quả báo xúc chạm vật cứng nhám, kết quả không đẹp.

Do nhân tạp uế nên bị quả báo rừng cây gai góc, vườn tược tiêu điều.

Do nhân tham ái nên bị quả báo kho tàng ít ỏi.

Do nhân sân hận nên bị quả báo mùi vị cay đắng, dung mạo xấu ác.

Do nhân ngu si nên bị quả báo sắc bên ngoài không sạch, bị hư hao.

Xa lìa việc giết hại, thọ mạng và y báo đều được đầy đủ.

Xa lìa trộm cắp thì đói khát, gió, mưa đá, sâu trùng, các tai hoạn đều được xa lìa.

Nhân không có tà dâm thì tiếng tốt đồn khắp, xa lìa trấn cấu.

Nhân không vọng ngữ, miệng thường thơm sạch.

Nhân không ly gián nên quyến thuộc được hòa thuận xa lìa cao thấp, sấm sét, sương, mưa đá.

Nhân không có thô ác nên quả ngọt, tốt đẹp, xa lìa cứng nhám.

Nhân không có tạp uế nên rừng cây, vườn tược xa lìa gai góc, tất cả đều tươi nhuận.

Nhân không có tham ái nên kho lẫm được sung mãn, đầy đủ.

Nhân không có sân hận nên thân tướng được tròn đầy, các căn không có khuyết tật.

Nhân không có tà kiến nên tín tâm không đoạn, được tối thượng, thơm, đẹp đầy đủ.

Mười thiện nghiệp được quả báo gì?
Do nhân sát sanh nên bị thọ mạng, sắc lực đều không đầy đủ.Sát sanh có mười quả báo:
1. Oan gia ngày càng nhiều
2. Ai thấy kẻ ấy cũng không hoan hỷ.
3. Hữu tình sợ sệt.
4. Hằng chịu sự khổ não.
5. Thường nghĩ đến việc giết.
6. Nằm mộng thấy sầu khổ.
7. Lúc lâm chung bị hối hận.
8. Thọ mạng ngắn ngủi.
9. Tâm thức bị ngu muội.
10. Khi chết đọa vào địa ngục.
Long vương! Nếu xa lìa sát sanh thời được thành tựu mười pháp không còn bức não.
1. Đối với các chúng sanh cùng khắp bố thí đức vô úy,
2. Thường khởi lòng đại từ đối với chúng sanh,
3. Dứt sạch tất cả tập khí (thói quen) giận hờn,
4. Thân thường không bịnh,
5. Sống mạnh lâu dài,
6. Thường được phi nhơn [quỷ thần] ủng hộ,
7. Thường không ác mộng, thức ngủ an vui,
8. Diệt trừ oan kết, oán thù tự giải,
9. Không sợ sa đường dữ,
10. Khi chết sanh lên cõi trời.
Nếu hồi hướng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, được quả Phật thì tùy tâm tự tại sống lâu. (Nguồn:
Công đức thập thiện (Nguồn)

1. Công đức xa lìa sự sát sanh

Do nhân trộm cắp nên bị sương, mưa đá, sâu trùng, đói khát, hạn hán.Trộm cắp quả báo có mười thứ
1. Kết thêm oan gia đời trước.
2. Luôn luôn nghi ngờ nghĩ ngợi.
3. Bị bạn ác theo đuổi.
4. Bạn lành lánh xa.
5. Phá tịnh giới của Phật.
6. Bị phép vua trích phạt.
7. Buông lung phóng dật.
8. Mãi mãi sầu lo.
9. Không được tự do.
10. Chết đọa địa ngục.
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa trộm cắp thời được mười pháp bảo tín.
1. Giàu có của cải, vua, giặc, nước, lửa và con hư không phá diệt;
2. Nhiều người thương mến;
3. Người không dối gạt;
4. Mười phương khen ngợi;
5. Không lo tổn hại;
6. Tiếng tốt đồn khắp;
7. Ở giữa đại chúng không sợ hãi;
8. Của cải tánh mạng hình sắc sức lực an vui, biện tài đầy đủ không thiếu;
9. Thường sẵn lòng bố thí;
10. Mạng chung sanh lên trời.
Nếu hồi hướng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác sau thành Phật, được chứng trí thanh tịnh đại bồ-đề.
2) Công đức xa lìa trộm cắp
Do nhân tà dục nên bị quả báo bên ngoài nhiều trần cấu, vợ không trinh thuận.Tà dục quả báo có mười thứ

1. Dục tâm bừng cháy.
2. Thê thiếp không trinh lương.
3. Tăng trưởng sự bất thiện.
4. Thiện pháp bị tiêu diệt.
5. Nam nữ phóng túng.
6. Tài sản âm thần tiêu tán.
7. Tâm nhiều nghi ngờ nghĩ ngợi.
8. Xa lìa bạn lành.
9. Bị thân tộc không tin tưởng.
10. Mạng chung bị đọa vào tam đồ.

Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa tà hạnh thời được bốn pháp kẻ trí ngợi khen.
1. Pháp căn điều thuận;
2. Xa lìa rộn ràng;
3. Được đời khen ngợi;
4. Vợ không ai xâm phạm.
Nếu hồi hướng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau thành Phật, được Phật trượng phu ẩn mật tàng tướng.
3) Công đức xa lìa tà hạnh (tà dâm)
Do nhân hư vọng/ Vọng ngữ nên bị quả báo hôi thối ô danh, người đều hiềm ghét.Vọng ngữ quả báo có mười thứ.
1. Hơi trong miệng thường hôi thối.
2. Kẻ ngay thẳng xa lánh.
3. Người nịnh nọt quanh co ngày càng nhiều.
4. Gần gũi kẻ phi nhân.
5. Dù có nói thật cũng không ai tin.
6. Trí huệ ít dần.
7. Tiếng tăm không thật.
8. Không nói lời thành thật.
9. Ưa nói chuyện thị phi.
10. Thân chết sanh vào ác đạo.
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa vọng ngữ thời được tám pháp trời khen ngợi.
1. Miệng thường thanh tịnh thơm mùi hoa ưu bát;
2. Được người đời tín phục;
3. Mở lời thành chứng, nhơn thiên kính mến;
4. Thường đem lời êm dịu an ủi chúng sanh;
5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh;
6. Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỷ;
7. Mở lời tôn trọng, nhân thiên phụng hành;
8. Trí huệ thù thắng không ai chế phục.
Nếu hồi hướng về đạo Vô thượng bồ-đề, sau thành Phật được chơn thật ngữ của Như Lai.
4) Công đức xa lìa nghiệp vọng ngữ
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa nghiệp hai lưỡi thì được năm pháp không thể phá hoại
1. Được thân bất hoại, không ai hại được;
2. Được bà con bất hoại, không ai phá hại;
3. Được lòng tin bất hoại, thuận theo bổn nghiệp;
4. Được pháp bất hoại, chỗ tu kiên cố;
5. Được thiện trí thức bất hoại không dối lừa nhau.
Năm công đức này nếu hồi hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau thành Phật được quyến thuộc chơn chánh, các ma ngoại đạo không thể phá hoại.
5) Công đức xa lìa nghiệp hai lưỡi .
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa ác khẩu thời được thành tựu tám món tịnh nghiệp
1. Lời nói không trái pháp độ;
2. Lời nói có lợi ích;
3. Lời nói quyết lý;
4. Lời nói đẹp đẽ;
5. Lời nói thừa lãnh được;
6. Lời nói được tin dùng;
7. Lời nói không thể chê;
8. Lời nói được ưa thích.
Nếu hồi hướng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau thành Phật đầy đủ phạm âm thanh tướng của Như Lai.
6) Công đức xa lìa nghiệp ác khẩu
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa ỷ ngữ thì thành tựu ba món quyết định.
1. Được người trí yêu mến;
2. Dùng trí như thật đáp các người hỏi;
3. Ở nhơn thiên oai đức tối thắng, không hư vọng.
Nếu hồi hướng vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau thành Phật được Như lai thọ ký, chẳng có luống dối.
7) Công đức lìa ỷ ngữ (nói thêu dệt).
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa tham dục thời được năm món tự tại.
1. Ba nghiệp tự tại các căn cụ túc;
2. Của cải tự tại, oán tặc không cướp hại;
3. Phước đức tự tại, toại lòng yêu muốn vật dụng đầy đủ;
4. Vương vị tự tại, đồ vật quý lạ đều được phụng hiến;
5. Những vật được thù thắng gấp trăm lòng mong cầu, vì ngày xưa không bỏn xẻn ganh ghét.
Nếu hồi hướng Vô thượng bồ-đề, sau thành Phật, tam giới đặc biệt tôn trọng, thảy đều kính nhường.
8) Công đức xa lìa tham dục
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa sân nhuế thời được tám món tâm pháp hỷ duyệt.
1. Không lòng tổn não;
2. Không còn sân hận;
3. Không lòng gây kiện;
4. Lòng nhu hòa ngay thật;
5. Được từ tâm của bậc thánh giả;
6. Sẵn lòng làm lợi ích an lạc cho chúng sanh;
7. Thân tướng đẹp đẽ, chúng đều tôn kính;
8. Do sự hòa nhẫn, mau sanh về cõi Phạm thiên.
Nếu hồi hướng đạo Vô thượng bồ-đề sau thành Phật được tâm vô ngại của Phật, người trông thấy không chán.
9) công đức xa lìa sân nhuế (sân hận)
Lại nữa Long vương! Nếu xa lìa nghiệp tà kiến thì được thành tựu mười pháp công đức.
1. Được ý vui chơn thiện, bầu bạn chơn thiện;
2. Thâm tín nhơn quả, thà bỏ thân mạng trọn chẳng làm ác;
3. Chỉ quy y Phật, không quy y các thiên thần;
4. Trực tâm chánh kiến, xa hẳn tất cả ngờ vực cát hung;
5. Thường sanh nhân thiện, không sa vào đường dữ;
6. Vô lượng phước báu lần lữa thêm nhiều;
7. Xa hẳn đường tà, tu hành đạo chánh;
8. Chẳng khởi thân kiến, bỏ các ác nghiệp;
9. Kiến giải vô ngại;
10. Chẳng bị các tai nạn. Ấy là mười.
Nếu hồi hướng quả Vô thượng bồ-đề sau thành Phật, mau chóng tất cả Phật pháp, thành tựu thần thông tự tại.
10) Công đức xa lìa nghiệp tà kiến/ Ngu si
Uống rượu có 36 lỗiUống rượu có 36 lỗi

1. Tài sản bị tản thất.
2. Hiện tại có nhiều bệnh tật.
3. Nhân ưa thích đấu tranh.
4. Tăng trưởng sự giết hại.
5. Tăng trưởng sự sân hận.
6. Phần nhiều không toại ý.
7. Trí huệ kém dần.
8. Phước đức không Tăng.
9. Phước đức hao giảm.
10. Phơi bày sự bí mật.
11. Sự nghiệp không thành.
12. Tăng nhiều sự ưu khổ.
13. Các căn bị ám muội.
14. Làm hủy nhục cha mẹ.
15. Không kính bậc sa-môn.
16. Không tin bà la môn.
17. Không tôn kính Phật.
18. Không kính Tăng, pháp.
19. Thân cận bạn ác.
20. Xa lánh bạn lành.
21. Bỏ bê việc ăn uống.
22. Thân hình (lõa lồ) không kín đáo.
23. Dâm dục hẫy hừng.
24. Mọi người không thích.
25. Tăng thêm sự cười chê.
26. Cha mẹ không vui.
27. Quyến thuộc chê bỏ.
28. Chấp nhận điều phi pháp.
29. Xa lìa chánh pháp.
30. Không kính bậc hiền thiện.
31. Vi phạm điều tội ác.
32. Xa lìa sự viên tịch.
33. Điên cuồng ngày càng nặng.
34. Thân tâm tán loạn.
35. Làm ác, phóng dật.
36. Thân hoại mạng chung đọa vào đại địa ngục, thọ khổ vô cùng tận.

Cung kính Phật Pháp

1. Sanh vào nhà đại quý tộc.
2. Có nhiều sắc đẹp.
3. Hình tướng khoẻ mạnh khả ái.
4. Tứ sự được dồi dào.
5. Trân bảo thật nhiều.
6. Tiếng tốt đồn khắp.
7. Tín căn thâm sâu.
8. Sự nhớ nghĩ rộng lớn.
9. Trí huệ nhạy bén cùng khắp.
10. Nghề nghiệp rộng lớn.

Người chấp tay cung kính
Đối với tháp của Như Lai mà chấp tay lễ bái, được mười công đức.

1. Ngôn từ nhu nhuyến.
2. Trí huệ siêu quần.
3. Người trời đều hoan hỷ.
4. Phước đức rộng lớn.
5. Cùng ở với người hiền thiện.
6. Được tôn quý tự tại.
7. Hằng được gặp Phật.
8. Được thân cận với Bồ tát.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Công đức do lễ bái tháp của Phật
Người lau bụi bặm tháp của Phật được mười công đức.  

1. Sắc tướng tròn đầy.
2. Thân thể ngay thẳng.
3. Âm thanh vi diệu.
4. Xa lìa ba độc.
5. Đi đường không bị chông gai.
6. Được chủng tộc tối thượng.
7. Được tôn sùng, quý trọng, tự tại
8. Mạng chung được sanh lên trời.
9. Thân thể không có cấu nhiễm.
10. Mau chứng viên tịch.

Công đức do lau chùi bụi tháp của Phật
Người bố thí dù lọng cho tháp của Như lai được 10 công đức.

1. Xa lìa sự nhiệt não.
2. Tâm không tán loạn.
3. Làm chủ thế gian.
4. Nghề nghiệp rộng lớn.
5. Phước đức vô lượng.
6. Được làm vua Chuyển luân.
7. Thân tướng tròn đầy
8. Xa lìa tam đồ.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Người bố thí dù lọng
Người bố thí chuông, linh cho tháp của Phật, được mười thứ công đức

1. Đoan nghiêm không thể so sánh được.
2. Diệu âm thật đáng ưa thích.
3. Tiếng như chim Ca-lăng
4. Ngôn từ nhu nhuyến.
5. Ai thấy cũng hoan hỷ.
6. Được sự đa văn như ngài A-Nan.
7. Tôn quý tự tại.
8. Tiếng tốt đồn xa.
9. Qua lại thiên cung.
10. Cứu cánh được viên tịch.

Bố thí chuông, linh
Người bố thí tràng phan cho tháp của Như Lai có mười công đức.

1. Hình dung ngay thẳng, được trường thọ, tròn đầy.
2. Thế gian ân trọng.
3. Tín căn kiên cố.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Thân hữu quyến thuộc thật nhiều.
6. Được khen ngợi có tiếng tốt.
7. Sắc tướng đoan nghiêm.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sanh nhà thượng tộc, phú quý, tự tại, được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Người bố thí tràng phan
Người dâng cúng y phục cho tháp của Như lai được mười hai thứ công đức thù diệu.

1. Thân thể ngay thẳng.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Phước tướng sáng láng.
4. Sắc tướng vi diệu.
5. Sắc hình đẹp không thể so sánh.
6. Thân không có trần cấu.
7. Y phục sạch đẹp.
8. Ngọa cụ mềm mại.
9. Được đại tự tại.
10. Mạng chung được sanh lên trời.
11. Ai thấy cũng đều kính yêu.
12. Mau chứng viên tịch.

Dâng cúng y phục
Người cúng dường hoa cho tháp của Như Lai có mười công đức.

1. Sắc tướng đẹp như hoa
2. Thế gian không thể so sánh.
3. Tỷ căn không hư hoại.
4. Thân không xú uế.
5. Diệu hương thanh tịnh.
6. Vãng sanh 10 phương tịnh độ, được thấy Phật.
7. Hương giữ giới thơm phức.
8. Thế gian ân trọng, được đại pháp lạc.
9. Được sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.

(cúng dường tháp xá lợi của Phật mà được)

Người cúng dường hoa
Người dùng tóc trải ra để dâng cúng tháp Như Lai, được mười thứ công đức.

1. Nhân sắc mềm mại thù diệu.
2. Thân không hôi thối.
3. Hình thể thanh tịnh.
4. Sanh về mười phương cõi Phật.
5. Hương giới thơm phức.
6. Hằng nghe diệu hương.
7. Quyến thuộc được viên mãn.
8. Các căn vui thích.
9. Sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng Niết-bàn.

Dung Tóc trải ra dâng cúng
Người bố thí đèn cúng dường tháp xá lợi của Phật, được mười công đức.

1. Được nhục nhãn thanh tịnh.
2. Được thiên nhãn thanh tịnh.
3. Xa lìa tam độc.
4. Được các thiện pháp.
5. Thông minh trí tuệ.
6. Xa lìa ngu si.
7. Không đọa vào tam đồ tối tăm.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Qua lại các cõi trời.
10. Mau chứng viên tịch.
(cúng dường đèn cho tháp xá lợi của Phật)

Bố thí Đèn
Người bố thí hương hoa cúng dường tháp của Như Lai được mười công đức.

1. Tỷ căn được thanh tịnh.
2. Thân không có hôi thối.
3. Thân sạch, có mùi thơm vi diệu.
4. Hình tướng đoan nghiêm.
5. Được thế gian cung kính.
6. Ưa pháp và nghe nhiều.
7. Được tôn quý tự tại.
8. Tiếng tốt đồn khắp.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

(cúng dường tháp xá lợi của đức Như Lai)

Bố thí Hương Hoa
Người dùng âm nhạc vi diệu cúng đường tháp của Phật được mười thứ công đức thù thắng vi diệu.

1. Thân tướng đoan nghiêm.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Được âm thanh vi diệu.
4. Ngôn từ hòa thuận.
5. Thân thể thích nghi.
6. Xa lìa sự sân hận
7. Được sự đa văn của ngài Khánh Hỷ.
8. Được tôn sùng, tôn quý, tự tại.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Cúng dường âm nhạc vi diệu
Người hoan hỷ tán thán tháp của Như lai được mười tám thứ công đức thắng diệu.

1. Chủng tộc tôn quý, cao thượng.
2. Hình tướng đoan nghiêm.
3. Thân thể ngay thẳng đầy đặn.
4. Ai thấy, nghe thấy cũng đều hoan hỷ.
5. Tiền của vô lượng.
6. Quyến thuộc rộng lớn.
7. Không bị mất mát, hư hoại.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Thường sanh về cõi Phật.
10. Tiếng tăm đồn xa.
11. Đức tốt được tán tụng.
12. Tứ sự được dồi dào.
13. Người trời đều cúng dường.
14. Được làm Chuyển luân vương.
15. Thọ mạng được lâu dài.
16. Thân thể cứng chắc như kim cang.
17. Mạng chung được sanh lên trời.
18. Mau chứng viên tịch.

Công đức như vậy là do hoan hỷ tán thán tháp xá lợi của Phật.

Hoan hỷ ca ngợi, tán thán Phật
Người bố thí giường tòa cho Phật được mười thứ công đức.

1. Đức nghiệp được tôn trọng.
2. Được thế gian khen ngợi.
3. Tay chân có nhiều sức mạnh.
4. Danh xưng dù xa cũng nghe.
5. Đức tốt được ca tụng.
6. An hòa vui thích.
7. Được ngồi tòa của Chuyển luân vương, kẻ hầu hạ thật nhiều.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ
9. Được sanh lên trời Tự tại, đầy đủ phước tướng.
10. Mau chứng viên tịch.

Bố thí Giường tòa cho Phật
Người bố thí giày dép cúng dường Tăng chúng của Phật, được mười công đức.

1. Oai nghi mô phạm.
2. Voi ngựa không thiếu.
3. Hành đạo dõng kiện.
4. Thân không mệt mỏi.
5. Chân đi không tổn hại.
6. Xa lìa gai góc, cát sỏi.
7. Được thần túc thông.
8. Tôi tớ đông đảo.
9. Sanh lên trời Tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.

Bố thí giày dép cho tăng chúng
Người bỏ 10 vật vào bình bát cúng thí cho Phật và Tăng, được mười thứ công đức

1. Hình sắc sáng rạng.
2. Đồ đựng đầy đủ, tùy ý thọ dụng.
3. Không bị các sự đói khát.
4. Ngọc báu thật nhiều.
5. Xa lìa đường ác.
6. Nhân thiên đều hoan hỷ.
7. Phước tướng tròn đầy.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Hằng được sanh lên các cõi trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Công đức như vậy là do cúng đồ đựng nên được quả báo ấy.

Cúng thí đồ đựng cho Phật, Tăng
Người lấy cơm chay cúng dường Phật và chúng Tăng có mười công đức

1. Thọ mạng lâu dài.
2. Hình sắc đầy đặn tròn trịa.
3. Tay chân có sức lực.
4. Ký ức không quên (trí nhớ tốt)
5. Trí huệ biện tài.
6. Ai thấy cũng hoan hỷ.
7. Có nhiều châu báu.
8. Dù ở cõi người hay ở cõi trời vẫn được tự tại.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Cúng Thí cơm chay cho Phật, Tăng chúng
Người dùng voi, ngựa, xe cộ cúng thí cho Phật và chúng Tăng có mười công đức

1. Tướng của bàn chân mềm mại.
2. Có oai nghi không sứt mẻ.
3. Thân thể không mệt mỏi.
4. An lạc không bệnh.
5. Oan gia xa lìa.
6. Thần túc tự tại.
7. Có nhiều tôi tớ.
8. Có phước tướng của nhân thiên, ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Cúng xe cộ, voi ngựa cho Phật, Tăng chúng
Người tu sửa phòng thất, nhà cửa, cung điện cúng thí cho Phật và chúng Tăng có nhiều công đức. Hành tướng của công đức

¯ Hằng xa lìa sợ sệt.
¯ Thân tâm an lạc.
¯ Được ngọa cụ mềm mại tối diệu.
¯ Y phục trang nghiêm, thân thể hương thơm thanh tịnh.
¯ Ở nhân gian hay thiên thượng được ngũ dục tự tại.
¯ Làm sát đế lợi, bà la môn đại tánh chủng tộc.
¯ Và trưởng giả, cư sĩ, tể quan, thương chủ, làng xóm, thành ấp, quốc vương, đại thần, tùy nguyện được đầy đủ, tất cả đều thành tựu.
¯ Nếu làm Chuyển luân thánh vương, tùy theo sức lực (thống nhiếp) một châu, hai châu, cho đến bốn châu nhà vua giáo hóa tự tại.
¯ Nếu ở Lục dục chư thiên, Tứ vương Đao lợi, cho đến Tha hóa Tự tại, mọi ý nguyện đều thành tựu, tùy ý sanh ra……….

Cúng thí Tu sửa phòng ốc
Người dùng thuốc thang, đồ uống mỹ diệu Cúng Phật và Tăng được mười thứ công đức.

1. Các căn được viên mãn.
2. Thanh tịnh tươi sạch.
3. Trán rộng ngay thẳng.
4. Dung mạo vui vẻ.
5. Hình sắc sáng rạng.
6. Phước đức tròn đầy.
7. Không bị đói khát.
8. Xa lìa ba ác đạo.
9. Được sanh lên trời Tự tại
10. Mau chứng viên tịch.

Cúng thí thuốc thang, đồ uống
Người theo Phật xuất gia có mười công đức.

1. Xa lìa nhà vợ.
2. Dù nhiễm dục vẫn không tham đắm.
3. Yêu thích sự tịch tịnh.
4. Chư Phật hoan hỷ.
5. Xa lìa tà ma.
6. Gần Phật nghe pháp.
7. Xa lìa ba đường ác.
8. Chư thiên kính yêu.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng tịch tịnh.

Công đức xuất gia theo Phật
Nếu có tỳ kheo ở trong rừng hoang tịch tịnh có 10 công đức

1. Xa lìa sự huyên náo ồn ào.
2. Thanh tịnh thơm sạch.
3. Thành tựu thiền định.
4. Được chư Phật thương tưởng.
5. Không bị nửa chừng chết yểu.
6. Được đa văn, tổng trì.
7. Thành tựu Xa ma tha vĩ bát xá na (chỉ và quán).
8. Phiền não không khởi.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.

Công đức do tỳ kheo tu hành ở trong rừng vắng mà được.

Tu nơi rừng hoang vắng, tịnh tịch
Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực có mười thứ công đức.

1. Oai nghi không sứt mẻ.
2. Thành thục hữu tình.
3. Xa lìa tâm ngã mạn.
4. Không tham danh lợi.
5. Phước điền cùng khắp.
6. Chư Phật hoan hỷ.
7. Làm hưng thạnh tam bảo.
8. Phạm hạnh tròn đầy, bỏ ý nghĩ thấp hèn.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Rốt ráo viên tịch

Công đức ôm bát khất thực

 

Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực, xa lìa mười thứ hắc ám, được mười thứ công đức như vầy. Những gì là mười?

1. Biết rõ việc ra vào xóm làng có ích hay không có ích.

2. Biết rõ gia đình dòng họ lúc đi đến có ích hay không có ích.

3. Biết rõ thuyết pháp có ích hay không có ích.

4. Biết rõ thân cận A-xà-lê, Hòa thượng có ích hay không có ích.

5. Biết rõ dùng tâm từ bi giáo hóa lợi lạc chúng sanh có ích hay không có ích.

6. Biết rõ sự thân cận hay xa lìa có ích hay không có ích.

7. Biết rõ tập học ba món giới, định, tuệ có ích hay không có ích.

8. Biết rõ đàn na tín thí bố thí y có ích hay không có ích.

9. Biết rõ ôm bát vào đường hẻm có ích hay không có ích.

10. Biết rõ thọ dụng ngọa cụ, thuốc thang cho đến lúc chết rồi có ích hay không có ích.

Do biết rõ như vậy được mười thứ quả báo thù thắng như vậy.

Bấy giờ đức Thế tôn bảo con của trưởng giả Du ca rằng:

–Nghiệp nhân, nghiệp sanh, nghiệp nhân, nghiệp diệt, nghiệp có trước, sau, dẫn nghiệp, mãn nghiệp sai biệt cho nên quả báo mới có cao, thấp, ngu trí cách biệt.

Khi đức Phật nói pháp này, lúc ấy trưởng giả Du ca bạch Phật

–Thưa Thế tôn, trong dòng họ Ô bá tắc ca và trong tất cả các dòng họ Sát-đế-lợi, Bà la môn ở nước Xá vệ này, nghe pháp này hoan hỷ, nhớ nghĩ và thọ trì. Quyến thuộc của chúng con đều rất yêu thích, mãi mãi được an lạc, lợi ích cho mình và cho người không cùng tận.

Đức Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này trưởng giả Du ca, đúng như lời ngươi nói.

Đức Thế tôn nói lời ấy xong, trưởng giả Du ca, con của Đâu nễ dã và các Bí sô, vô lượng trăm ngàn người và không phải người v. v… hoan hỷ, phấn khởi, lạy Phật rồi lui ra.

Hết Quyển Hạ (Phật dậy trưởng giả Du ca)

KINH THIỆN ÁC NHÂN QUẢ
(Phật dậy Anan)

Tôi nghe như vậy: Một thời đức Phật đang lưu trú tại nước Xá Vệ, trong vườn cây của thái tử KỳĐà và ông Cấp Cô Độc. Bây giờ, đại chúng gồm vô lượng Bồ-tát, trời, người đang ngồi xung quanh đức Phật. Đức Phật thuyết pháp, đại chúng nhất tâm lắng nghe.

Lúc ấy, ngài A-nan vì chúng sanh mà bạch đức Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Hiện tại trong thế gian có vô số chúng sanh, xét riêng về loài người thì có người đẹp, kẻ xấu; người mạnh, kẻ yếu; người giàu, kẻ nghèo; người khổ, kẻ sướng; người sang, kẻ hèn; tâm ý, ngôn ngữ sai biệt. Lại có người sống đến trăm tuổi chưa chết, kẻ ba mươi đã mất, người mười lăm tuổi đã yểu mạng, kẻ chết từ trong bào thai. Có người tướng tốt đoan trang mà nghèo hèn, có kẻ tương xấu thô tháo lại giàu sang. Có người cương nghị mà địa vị hạ liệt, có kẻ nhu nhược mà ở địa vị cao quý. Có người nghèo khổ mà sống lâu, có kẻ giàu vui mà lại chết sớm. Có người làm lành mà gặp tai họa, có kẻ làm ác mà được lợi lộc. Có người mập trắng mà đôi mắt gian xảo, có kẻ gầy đen mà đôi mắt lại hiền từ. Có người thấp lùn mà đầy đủ ý khí, có kẻ cao lớn mà bị người sai khiến. Có người con cháu đông đúc, có kẻ lại cô đơn một mình. Có người xa quê lang thang đói lạnh tiều tuỵ, có kẻ được vào cung vua cơm áo dư thừa. Có người nhỏ thì nghèo hèn, về già lại được giàu sang. Có người sự thật là vô tội mà lại bị nạn tù đày. Có người cha hiền con hiếu đàm luận nghĩa Kinh. Có người anh em chống nhau, tranh cãi, gây sự. Có người định cư nhà cửa đầy đủ phương tiện, có kẻ du cư không nhà trôi nổi khắp nơi. Có người ở trên cây như chim, ngủ trong hang như nai, sống như cầm thú. Có người ăn lông ở lỗ, không biết chữ nghĩa. Có người ngồi không mà hưởng phước báo, có kẻ rong ruổi làm khách không nhà. Có người thông minh sáng suốt, có kẻ ám độn ngu si. Có người phải buôn bán mới được tiền tài, có kẻ không làm mà của cải tự đến. Có người giàu mà xan tham keo kiết, có kẻ nghèo lại ưa thích bố thí. Có người nói phô hoà kính, có kẻ phát lời gai gốc. Có người được thương kính, có kẻ bị xa lánh. Có người làm lành bảo vệ chúng sanh, có kẻ sát sanh không xiết. Có người tâm niệm rộng rãi được nhiều người thân cận, có kẻ bỏn sẻn bị thiên hạ bỏ rơi. Có những anh em thường ghét nhau, có những chị em dâu thường hoà thuận. Có người thích nghe Kinh pháp, có kẻ nghe Kinh lại buồn ngủ. Có người vũ phu vô lễ, có kẻ chuộng học lễ nghĩa.
Ngưỡng cầu Thế Tôn giảng rộng về nhân quả, đại chúng nghe hiểu sẽ nhất tâm hành thiện.

( Một lối dịch khác của đoạn đầu Kinh như sau: Kính lạy đức Thế-Tôn ! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có người đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo người giầu, kẻ khổ người vui, kẻ sang người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giầu sang, kẻ rất khỏe mạnh mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ở triều ăn mặc tha hồ, có người lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giầu có sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con, hiếu luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không nhà không cửa nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như tổ quạ hang hươu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giầu mà tham sẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí.

Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại độ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi.

Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn trương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cúi xin đức Thế-Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!)

Đức Phật bảo A-nan: Như ông đã hỏi, sở dĩ đời này mọi người thọ báo không giống nhau, bởi lẽ đời trước họ dụng tâm sai khác nên khi lãnh thọ có ngàn sai vạn biệt:

– Đời này, người tướng tốt đoan chánh là do đời trước đã nhẫn nhục mà được, kẻ tướng xấu thô tháo là do sân hận gây nên.
– Người bần cùng là do xan tham, người cao quý là do lễ bái, kẻ hạ tiện là do kiên mạn.
– Người cao sang là do cung kính Tam bảo, kẻ thấp hèn là do khinh khi Phật pháp.
– Người hung dữ là do đời trước làm lang sói, kẻ đen gầy là do che ánh sánh của Phật.
– Người không có con cái là do giết hại chim non, kẻ nhiều con là do bảo vệ mạng sống cho chúng sanh.
– Người sống lâu là do lòng từ bi, kẻ chết sớm là do thường sát sanh.
– Người giàu to là do thích bố thí, kẻ nhiều xe ngựa là do dâng cúng xe ngựa cho Tam bảo.
– Người thông minh là do thường học hỏi, tụng Kinh; kẻ ám độn là do xuất thân từ súc sanh.
– Người làm tôi tớ là do quỵt nợ, kẻ hiếu động là do đời trước làm khỉ, vượn.
– Người bị ghẻ lở là do phá hoại Tam bảo; kẻ tay chân to nhỏ, ngắn dài không đều là do trói chân tay chúng sanh.
– Người sáu căn đầy đủ là do đã vâng giữ giới luật, kẻ sáu căn không đủ là do phá giới.
– Người có môi dính nhau là do nếm thức ăn trước khi dâng cúng.
– Người có mặt ửng đỏ là do tiếc nuối ánh sáng của lửa.
– Người có mắt như chim sẻ là do đã may mắt chim ưng.
– Người câm là do phỉ báng Phật pháp.
– Người điếc là do không thích nghe giảng Pháp.
– Người mũi tịt là do đốt hương hôi cúng Phật.
– Người sứt môi là do xỏ mang cá.
– Người tóc cháy là do quay heo.
– Người vành tai sức là do đâm lỗ tai.
– Người thân hình như rắn là do mặc quần áo mỏng đường đột đến trước tượng Phật.
– Người da đen là do để tượng Phật ở mái hiên bị khói xông.
– Người khập khễnh là do thấy Sư trưởng mà không đứng dậy.
– Người lưng gù là do mặc quần áo mỏng mà xây lưng với tượng Phật.
– Người trán vồ là do thấy Phật không lễ bái mà lấy tay vỗ trán.
– Người cổ ngắn là do thấy bậc Tôn trưởng lại rụt cổ rồi lánh đi.
– Người đau tim là do châm chích thân thể chúng sanh.
– Người bệnh cùi là do cướp đọat vật dụng của kẻ khác.
– Người bệnh suyễn là do mùa đông mà cho kẻ khác ăn thực phẩm nguội lạnh.
– Người bị bướu cổ là do ăn lén, ăn vụng.
– Người hơi thở hôi là do chửi rủa kẻ khác.
– Người nam căn khiếm khuyết là do đã thiến chó.
– Người lưỡi ngắn là do ở chỗ vắng mắng lén bậc Tôn trưởng.
– Người có tánh xấu là do đời trước làm rắn, bò cạp.
– Người dơ bẩn là do đời trước làm heo.
– Người thích nhảy múa là do đời trước làm diễn viên
– Người tham lam nhiều là do đời trước làm chó.
– Người thường sân hận, kén ăn là do đời trước điên cuồng.
– Người có đôi mắt bất chánh là do đời trước thường nhìn lén vợ con kẻ khác.

Đức Phật dạy tiếp:
* Người tà dâm với vợ hay con của kẻ khác chết đọa làm vịt, nguỗng.
– Người tà dâm trong vòng thân tộc, chết đọa làm chim sẻ.
– Người tiếc nuối Kinh sách, che dấu trí tuệ không cho kẻ khác, chết làm mối, mọt.
– Người thích mang cung tên, đi xe ngựa, chết đọa vào các nước man-di([16]), biên địa.
– Người thích săn bắn, sát hại, chết làm loài lang sói.
– Người thích cài trâm, giắt hoa, chết làm chim chào mào.
– Người thích mặc áo quần dài, chết đọa vào các loài đuôi dài.
– Người nằm mà ăn, chết đọa làm loài heo.
– Người thích mặc áo quần sặc sỡ, chết đọa làm loài chim nhiều màu sắc.
– Người giả giọng kẻ khác, chết đọa làm loài vẹt.
– Người hay trêu chọc, đùa giỡn, chết đọa làm loài trăn có nọc độc.
– Người hay làm kẻ khác phiền não một cách vô lý, chết đọa làm sâu bọ độc hại.
– Người hay báo những tin xấu, chết đọa làm chim cú.
– Người hay nói lời gây nên tai họa, chết đọa làm chồn, cáo.
– Người hay khủng bố kẻ khác, chết đọa làm hươu nai.
– Người hay mang guốc gỗ vào điện Phật, chết đọa làm các loài bị đóng móng chân.
– Người hay hạ phong, chết đọa làm con bọ hung.
– Người hay dùng chày cối của chúng Tăng, chết đọa làm con bửa củi.
– Người hay bớt xén thức ăn của kẻ khác, chết đọa làm côn trùng mổ gỗ.
– Người ăn trộm nước của chúng Tăng, chết đọa làm cá rùa.
– Người làm bẩn đất chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ở cầu tiêu.
– Người trộm cướp hoa quả của chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ăn bùn đất. Trộm cắp tài sản của chúng Tăng, chết đọa làm loài bò, lừa kéo cối xay. Cưỡng đọat vật dụng của chúng Tăng, chết đọa làm chim bồ câu. Mắng chửi chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ở cổ con bò. Ăn rau cải của chúng Tăng, chết đọa làm sâu ở cấy nghễ. Ngồi trên gường chúng Tăng, chết đọa làm con giun đất. Dùng những vật liệu lặt vặt của chúng Tăng, chết đọa làm con thiêu thân.
– Người mang trâm bằng xương vào chùa chết làm chim mỏ dài. Vào chuà, xoa son, bôi phấn, chết đọa làm chim mỏ đỏ. Vào chùa, mặc áo quần sặc sỡ, chết đọa làm chim màu vàng. Vợ chồng ngủ trong Chùa, chết đọa làm côn trùng có mào màu xanh. Ngồi duỗi chân ở Tháp Phật, chết đọa làm lạc đà. Mang giày dép vào Tịnh Xá, vào Tháp chết đọa làm con ếch. Nghe pháp nói xàm, chết đọa làm con chim trăm lưỡi. Làm ô uế Tỷ-kheo ni thanh tịnh, chết đọa vào địa ngục hầm sắt, có ngàn vạn vòng đao cùng chặt chém thân thể.

Bấy giờ, ngài A-nan bạch đức Phật: Như lời Thế Tôn dạy, tội chướng của con người thật là sâu nặng. Như vậy, người đến Chùa cần phải làm gì để có công đức?
Đức Phật bảo: Những người đến Chùa có hai thứ tâm niệm, một là tâm thiện, hai là tâm ác.
Thế nào là tâm thiện?
– Người đến Chùa nếu thấy Phật thì lễ bái, thấy Tăng thì cung kính, thưa hỏi nghĩa Kinh, thọ Giới, sám hối, bỏ tài vật phụng sự Tam bảo, hộ trì đại Pháp không tiếc thân mạng. Người như vậy bước một bước là đến thiện xứ, đời sau được quả báo như cây Đề-ca. Đây gọi là người lành tối thượng.
Thế nào là tâm ác?
– Người đến Chùa kề cạnh chúng Tăng để xin vật này, mượn vật nọ; hoặc tìm điều hay điều dở của chúng Tăng để phá hoại. Hoặc dùng thức ăn của chúng Tăng không biết xấu hổ, hay lấy các thứ bánh trái, rau cải, thức ăn giấu giếm đem về nhà. Những người như thế, chết đọa vào địa ngục viên sắt nóng, nước sôi, lò than, núi đao, rừng kiếm. Đây gọi là người ác tột cùng.
Đức Phật bảo A-nan: Hãy răn dạy hàng đệ tử đời sau của Ta, phải cẩn thận đối với Tam bảo, chớ phạm những lỗi lầm trên, hết lòng chí thành sùng bái, chớ sanh tâm thối lui. Nếu nghe lời Ta, khi ngài Di Lặc xuất thế chắc chắn sẽ được hoá độ.
Đức Phật lại dạy tiếp:
* Đời này lột áo kẻ khác, chết đọa vào địa ngục giá lạnh, sau đó lại sanh làm loài tằm bị luộc rồi kéo tơ.
– Đời này không thắp đèn để chiếu sáng Kinh Tượng, chết đọa vào địa ngục đèn tối của Thiết Sơn.
– Đời này nấu, giết, chặt đứt thân mạng của chúng sanh, chết đọa vào núi đao, rừng kiếm.
– Đời này đuổi bắt chim, chó hoặc săn bắn, chết đọa vào địa ngục cưa sắt.
– Đời này làm nhiều hạnh tà vạy, chết đọa vào địa ngục giường sắt, cột đồng.
– Đời này cưới nhiều vợ, chết đọa vào địa ngục cối xay bằng sắt.
– Đời này lấy nhiều chồng, chết đọa vào địa ngục rắn độc.
– Đời này nấu, thiêu gà; chết đọa vào địa ngục sông tro.
– Đời này nấu, thiêu vịt, heo; chết đọa vào địa ngục nước sôi.
– Đời này thiến chó hoặc heo, chết đọa vào địa ngục đá nhọn.
– Đời này uống rượu say sưa, cuồng loạn; chết đọa vào địa ngục uống nước đồng sôi.
– Đời này chặt đứt thân mạng chúng sanh, chết đọa vào địa ngục bánh xe sắt.
– Đời này trộm trái cây của chúng Tăng, chết đọa vào địa ngục nuốt viên sắt nóng.
– Đời này ăn thịt heo, chó; chết đọa vào địa ngục phẩn, tiểu.
– Đời này ăn cá sống, chết đọa vào địa ngục núi đao, rừng kiếm.
– Đời này làm mẹ kế hà khắc con chồng, chết đọa vào địa ngục xe đốt nóng.
– Đời này nói hai lưỡi gây rối loạn, chết đọa vào địa ngục cày sắt.
– Đời này ác khẩu mắng người, chết đọa vào địa ngục rút lưỡi.
– Đời này nói láo nhiều, chết đọa vào địa ngục đinh sắt.
– Đời này sát sanh để dâng cúng quỷ thần, chết đọa vào địa ngục chày sắt.
– Đời này làm phù thuỷ nói dối gạt người lấy của, chết đọa vào địa ngục núi đá.
– Đời này làm phù thuỷ cố tình gạt người, nói rằng, lên trời tìm linh hồn người chết; người chết đọa vào địa ngục chặt lưng.
– Đời này làm phù thuỷ dạy người sát sanh đề cầu thần linh, cầu thần hoàng, thổ địa hay cầu quỷ mị.v.v đều là dối gạt kẻ ngu; chết đọa vào địa ngục búa chặt; bị ngục tốt chém, bị loài chim mỏ sắt móc mắt.
– Đời này làm phù thuỷ chôn cất người, đoán điềm họa phước, cát hung của dòng họ, an định vườn nhà, yểm chết trùng, trù tai họa dối gạt kẻ ngu lấy của. Những người như thế, chết đọa vào địa ngục sắt đồng, có nhiều chim thú dữ bu quanh thân thể, khoét móc da thịt, gân xương, thống khổ vô cùng.
– Đời này làm thầy thuốc đoán sai bệnh, gạt kẻ khác lấy của; chết đọa vào địa ngục kim châm, toàn thân phát cháy.
– Đời này phá hoại Chùa, Tháp, hành hạ Tăng Ni, bất hiếu cha mẹ, chết đọa vào địa ngục A-tỳ. Trước hết phải trải qua tám địa ngục lớn, một trăm ba mươi sáu địa ngục nhỏ, sau đó rơi vào địa ngục A-tỳ một kiếp, hai kiếp hay năm kiếp mới được thoát ra. Nếu may mắn được gặp thiện tri thức để phát tâm Bồ-đề, trái lại bị rơi vào địa ngục.
– Đời này phá Tháp, huỷ Chùa, dấu tài sản của Tam bảo để tiêu xài, chết đọa vào địa ngục A-tỳ. Ra khỏi địa ngục thì làm thân súc sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, vịt, le le, chim két, chim sẻ xanh, cá, rùa, khỉ, nai, hươu. Nếu được sanh làm người thì làm dâm nữ hay bị lại cái (bán nam bán nữ).
– Đời này ưu thích sân hận, chết đọa làm rắn độc, sư tử, cọp, sói, gấu, mèo rừng, chim ưng, diều hâu.
– Đời này ưu thích nuôi heo, gà; chết đọa làm cai ngục.
– Đời này ngu si, không hiểu đạo lý; chết đọa làm voi, heo, bò, dê, trâu, chí, rận, kiến, muỗi.v.v.Nếu được làm người thì bị điếc, mù, câm, gù, cụt, què, các căn không đủ, không thể nghe Phật pháp.
– Đời này kiêu mạn chết đọa làm côn trùng ở nhà xí, hoặc làm lạc đà, lừa, ngựa, chó ngao. Nếu được làm người thì làm tôi tớ, bần cùng, ăn xin, bị người khinh khi.
– Đời này làm quan ỷ thế lấy tài sản của dân, chết đọa vào địa ngục núi da, trăm vạn người lột da để ăn.
– Đời này ưa thích bắt kẻ khác đứng để chết, khi chết đọa làm voi trắng, chân thẳng không nằm ngủ được.
– Đời này phá trai, ăn ban đêm, chết đọa làm ngạ quỷ, trăm ngàn vạn năm không được ăn uống, khi bước đi đầu lóng chân bốc lửa.
– Đời này ưa thích ngồi loã hình, chết đọa làm loài cú vọ.
– Đời này giấu thực phẩm trai phạn để ăn lén, chết đọa vào địa ngục sắt nóng; nếu được làm người thì bị bệnh nghẹt yết hầu, chết yểu.
– Đời này lễ Phật không sát đất, chết đọa vào địa ngục treo ngược; nếu được làm người thường bị kẻ khác lường gạt.
– Đời này lễ Phật không chắp tay, chết sanh vào vùng biên địa, làm gì thì mất nhiều công sức mà chẳng có thu hoạch.
– Đời này chấp tay cao lễ Phật, chết đọa vào địa ngục bị trói, bị treo; nếu được làm người thường gặp tai nạn bất ngờ.
– Đời này chắp tay, chí tâm lễ Phật sát đất, chết được sanh chỗ tôn quý, có nhiều điều vui.
– Đời này nghe chuông không ngồi dậy, chết đọa làm con rắn thân dài lớn, bị các loài côn trùng rúc rỉa.
– Đời này bênh vực vợ (chồng), mắng chửi cha mẹ, chết đọa vào địa ngục bị cắt lưỡi.
-Đời này thêm nước vào rượu để bán, chết đọa làm côn trùng trong nước; nếu được làm người thì bị trướng, chết ngạt.

Đức Phật dạy tiếp:
* Người thân thể cao to, mạnh mẽ mà sân hận khó bỏ là do đời trước làm lạc đà.
– Người thích đi, ăn nhiều, gặp chỗ nguy hiểm không tránh là do đời trước làm ngựa.
– Người chịu được nóng lạnh mà tâm vô ký là do đời trước làm bò.
– Người cống cao không biết xấu hổ, nghĩ nhiều về luyến ái, không biết phải quấy là do đời trước làm lừa.
– Người thích ăn thịt, làm việc không sợ sệt là do đời trước làm sư tử.
– Người thân cao lớn, mắt tròn, thích đi chỗ vắng vẻ, ganh ghét vợ (chồng) con là do đời trước làm cọp.
– Người lông dài, mắt nhỏ, không thích ở một chỗ là do đời trước làm chim.
– Người tánh tình lật lường, thích sát hại chúng sanh là do đời trước làm chồn, cáo.
– Người mạnh mẽ, ít dâm dục, không yêu thương vợ (chồng) con là do đời trước làm lang sói.
– Người không thích mặc đẹp, thường bắt kẻ gian, giận nhiều, ít ngủ là do đời trước làm chó.
– Người dâm ô, thường bàn chuyện người yêu là do đời trước làm chim két.
– Người thích ở chỗ đông đúc, lời nói phần nhiều làm phiền não kẻ khác là do đời trước làm chim bồ chao.
– Người thân nhỏ, tính dâm, tâm không ổn định, thấy sắc đẹp bị mê hoặc là do đời trước làm chim sẻ.
– Người có mắt đỏ, răng ngắn, khi nói hay khạc nhổ, khi ngủ nằm cuốn tròn là do đời trước làm rắn.
– Người nói phô thường nóng giận, không hiểu nghĩa hay phát lửa sân là do đời trước làm bò cạp.
– Người sống riêng lẻ, ăn nhiều, đêm ít ngủ là do đời trước làm mèo rừng.
– Người thường đục tường ăn trộm, tham tài, không có thân thuộc là do đời trước làm chuột.

Đức Phật dạy A-nan: Ta đã nói rằng, tất cả những khổ đau đều do hành động (nghiệp) của mười điều ác. Nghiệp ác nặng nhất thì đọa vào địa ngục, nghiệp ác trung bình thì đọa làm súc sanh, nghiệp ác nhẹ hơn thì đọa làm ngạ quỷ.
Trong đây:
+ Tội sát sanh đẩy đưa chúng sanh đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là chết yểu, hai là nhiều bệnh.
+ Tội trộm cướp đẩy đưa chúng sanh đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là nghèo hèn, hai là tài sản bị tịch thu, không tiêu xài được.
+ Tội tà dâm cũng bị đọa vào ba ác đạo (địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ). Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là vợ (chồng) không trung thành, hai là vợ (chồng) tâm ý bất hoà, hay cãi lộn nhau.
+ Tội vọng ngũ cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường bị phỉ báng, hai là thường bị nhiều người lường gạt.
+ Tội nói hai lưỡi cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm thân người thị bị hai thứ quả báo: một là quyến thuộc bị phá hoại, hai là quyến thuộc hung dữ.
+ Tội ác khẩu cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường nghe tiếng dữ, hai là nói gì thường bị cãi lại.
+ Tội ỷ ngữ cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bị hai thứ quả báo: một là nói điều gì đúng cũng không được ai tin, hai là nói gì cũng không thông tình đạt lý.
+ Tội dâm dục cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bi hai thứ quả báo: một là tham của cải không biết chán, hai là ham muốn nhiều mà không được toại nguyện.
+ Tội sân nhuế cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bị hai thứ quả báo: một là thường bị kẻ khác moi móc, hai là thường bị kẻ khác não hại.
+ Tội tà kiến cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường bị sanh vào gia đình tà kiến, hai là tâm thường siểm nịnh.
+ Các Phật tử! Đó là con đường mười tội ác, là nhân duyên hội tụ các điều đau khổ.

Bấy giờ, trong hội chúng có những người đã làm mười điều ác ấy, được nghe đức Phật dạy về những quả báo khổ đauđịa ngục, đều rống khóc và bạch đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn
chúng con phải làm những việc lành gì để tránh khỏi những khổ đau ấy?
Đức Phật dạy: Nên bảo tất cả chúng sanh cùng làm việc phước. Thế nào là việc phước?
* Nếu chúng sanh nào, đời này làm đại Hóa chủ như lập Chùa, xây Tháp thì đời sau chắc chắn sẽ làm Vua thống lãnh vạn dân, đi đâu cũng được mọi người phục tùng.
– Đời này làm Thị Trưởng trung chánh, làm Duy na([17]) hay Luận chủ([18]) thì đời sau sẽ làm Vương thần, Tướng soái thống lãnh cả châu bộ, đầy đủ mọi y phục, xe ngựa; các phương tiện cần thiết tự nhiên sung mãn.
– Đời này hướng dẫn mọi người làm các công đức thì đời sau sẽ làm trưởng giả giàu sang, được tôn kính, mọi việc làm đều thuận tiện, không bị trái chống.
– Đời này thắp đèn và bảo vệ ánh sáng thì đời sau sẽ được sanh lên cõi trời Nhật nguyệt, thân thể phát chiếu ánh sáng rực rỡ.
– Đời này ưa thích bố thí với tâm từ bi và bảo hộ chúng sanh, thì đời sau sẽ ở chỗ nào cũng được giàu sang, y phục thực phẩm đầy đủ.
– Đời này ưa thích bố thí thực phẩm cho mọi người thì đời sau sanh ở chỗ nào, thực phẩm tự đến, sức khỏe và sắc đẹp hoàn hảo, thông minh biện tài, tuổi thọ dài lâu.

Nếu bố thí cho súc sanh thì phước báo gấp trăm lần.
Bố thí cho Nhất xiển-đề([19]) thì phước báo gấp trăm ngàn lần.
Bố thí cho Pháp sư giảng pháp Đại thừa, trình bày những tạng bí mật của Như Lai, giúp đại chúng phát khởi trí tuệ thì hưởng phước báo vô lượng.
Bố thí cho đức Phật, Bồ-tát thì hưởng phước báo vô tận.

Lại nữa, bố thí cho ba đối tượng này cũng hưởng được phước báo vô cùng tận. Đó là: thứ nhất, chư Phật; thứ hai, cha mẹ; thứ ba, người bệnh. Chỉ cần bồ thí một bữa ăn, phước báo đã vô lượng rồi, huống gì thường xuyên bố thí phước báo làm sao cùng tận được.

– Đời này ưa thích tán thán, đọc tụng Kinh pháp sẽ được giọng nói hoà nhã, diệu hiền, ai nghe cũng hoan hỷ.
– Đời này ưa thích trì giới sẽ được sanh vào gia đình đoan chánh hoàn hảo.
– Đời này ưa thích đào giếng nơi công cộng, đặt nước uống dọc đường, trồng cây gây bóng mát; đời sau sẽ được làm Vua, đồ ẩm thực trăm vị tùy sở thích, muốn là có ngay.
– Đời này ưa thích in chép Kinh điển, phổ biến cho mọi người đọc, sẽ được sanh làm người biện tài, Phật pháp vừa nghe liền thông đạt, thường được chư Phật, Bồ-tát hộ trì. Đây là người tối thắng, thường làm thượng thủ.
– Đời này ưa thích làm cầu, làm thuyền đưa người sang sông, sẽ được sanh vào gia đình đầy đủ bảy vật báu, mọi người ai cũng cung kính, chiêm ngưỡng, vui mừng, đi đâu cũng được mọi người hộ vệ.

Đức Phật bảo A-nan: Như Ta đã nói nhân quả của từng vấn đề trong Kinh để khuyên chúng sanh đọc tụng, tu hành nhằm thoát khỏi khổ đau, tai nạn. Nếu ai nghe Kinh này mà khinh chê thì lưỡi người ấy rụng liền trong đời này.

Bấy giờ, ngài A-nan bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này gọi là gì? Làm sao để tu tập?

Đức Phật bảo A-nan: Kinh này tên là Nhân Quả Thiện Ác, Cũng gọi là kinh Bồ-tát phát nguyện Tu Hành; cứ như vậy mà thọ trì.
Khi đức Phật giảng kinh này xong, trong hội chúng có tám vạn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trăm ngàn người nữ chuyển thành nam tướng, một ngàn hai trăm người ác độc chuyển thành người thiện lương, chứng quả Vô sanh nhẫn, luôn được an lạc tự tại. Những người sau này khi chết được sanh về các Tịnh độ, làm bạn với chư Phật, Bồ-tát.
Đến đây, tất cả đại chúng trở về trú xứ của mình và thực hành lời dạy của đức Phật.