All posts by Biên Tập Viên

Đức Phật dậy về giải quyết bất hòa trong cuộc sống

Những điều Đức Phật dạy về hóa giải bất hòa

Đối với Đức Phật, việc hóa giải những bất hòa cũng quan trọng không kém việc xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa những người sống chung. Cộng đồng Tăng già mới thành lập của Ngài bao gồm cả nam và nữ đến từ mọi thành phần xã hội, những thành viên trong cộng đồng đó có những khác biệt lớn về nhiều phương diện và điều không thể tránh là sự phát sinh những mâu thuẫn.

Xem ảnh lớn." src="https://giacngo.vn/userimages/1/2009/09/23/phapnan.gif" alt="[​IMG]" data-url="https://giacngo.vn/userimages/1/2009/09/23/phapnan.gif" />

Với cái thấy xuyên suốt, Đức Phật đã cho những người sống chung những bài học quý báu để ngăn ngừa và hóa giải những mâu thuẫn xảy ra giữa họ. Mặc dù lúc đó Đức Phật nhắm đến những đệ tử xuất gia, những lời khuyên của Ngài cũng áp dụng có hiệu quả cho những cộng đồng xã hội khác và vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Sau đây, chúng ta lần lược trình bày và phân tích những lời dạy của Ngài.

Năm sự khéo léo trong việc trao đổi

Những lời dạy của Đức Phật về sự khéo léo trong cách giải quyết tốt đẹp những bất hòa được Ngài Xá Lợi Phất giải thích rành mạch(1).

Đức Phật dạy, có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo Ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả tiêu cực và đáng ân hận – và hầu hết người nói sẽ gặp phản ứng từ người nghe. Sau đây, chúng ta khảo sát năm phương pháp mà Đức Phật và Ngài Xá Lợi Phất coi như thiết yếu trong việc hóa giải những bất hòa trong đời sống hàng ngày.

Xem ảnh lớn." src="https://giacngo.vn/UserImages/1/2009/09/23/ducphat.gif" alt="[​IMG]" data-url="https://giacngo.vn/UserImages/1/2009/09/23/ducphat.gif" />

1. Nêu vấn đề đúng thời

Đúng thời là một điều kiện quan trọng trong việc truyền đạt của Đức Phật. Ngài tự nhận là một “người nói đúng thời” và thường nhấn mạnh rằng sự thất bại hay thành công trong cuộc trao đổi tùy thuộc rất lớn vào thời điểm(2). Theo Ngài Xá Lợi Phất, đúng thời là điều kiện thiết yếu trong việc hóa giải những mâu thuẫn giữa người với người.

Với những bằng chứng được ghi lại, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử loài người nhấn mạnh sự quan trọng của việc đúng thời trong lời nói. Đó là vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Tư tưởng gia Hy Lạp tiền Socrate là Protagoras đề cập đến khái niệm này lần đầu tiên trong lịch sử Tây phương vào thế kỷ thứ tư trước Tây lịch.

Khái niệm “nói đúng thời” của Đức Phật mang một ý nghĩa rộng rãi. Điều cần chú ý đầu tiên là trạng thái tinh thần của người nghe. Cuộc đối thoại giữa Đức Phật và bà Gotami, người có đứa con duy nhất chết khi còn nhỏ, chứng tỏ sự quan trọng của tác nhân này(3). Gotami ôm đứa con đã chết đến cho nhiều vị thầy thuốc để mong được cứu, nhưng tất cả các thầy thuốc đều trả lời rằng đứa bé đã chết, không ai có thể cứu sống được. Quá thất vọng và đau buồn, bà ôm con đến chỗ Đức Phật, người được coi là “vị thầy vĩ đại nhất”, cầu khẩn Ngài cứu sống đứa bé. Thấy sự đau đớn khôn cùng của người mẹ, Đức Phật quyết định không nói ngay về sự thật. Ngài bảo bà đi tìm một nắm hạt cải ở nhà nào chưa từng có người chết. Vì biết rằng bà sẽ phản ứng và và đau đớn khi nghe sự thật, Ngài đợi đúng lúc để nói cho bà về sự thật không vui rằng cái chết là phổ biến cho mọi người, không ai có thể tránh khỏi, không ai có thể thay đổi. Và điều đó đã giúp bà giảm đi nỗi đau và đạt đến trí tuệ.

Các nhà tâm lý xác nhận rằng một người đang lúc không vui ít muốn lắng nghe. Một trẻ vị thành niên khi mang về một giấy báo điểm thấp có thể sẽ phản kháng mãnh liệt trước lời khuyên của cha mẹ rằng hãy cố gắng để khá hơn trong kỳ học tới. Một người vợ hay chồng về nhà sau một cuộc chạm trán không vui với cấp trên có thể thấy những lời cau có của người kia nhức nhối khó chịu hơn. Trao đổi khi người nghe ở trong trạng thái vui vẻ có thể đem lại những kết quả tốt đẹp hơn.

Sự thoải mái về thể xác cũng phải được kể vào nguyên tắc đúng thời. Đức Phật bảo đệ tử của Ngài cho một người muốn nghe pháp đang đói được ăn trước khi Ngài thuyết pháp cho người đó(4). Đức Phật biết rằng thuyết pháp cho một người đang đói sẽ đem lại ít lợi lạc hơn. Và trước khi nói pháp cho một đệ tử xuất gia, Đức Phật đã hỏi han về chứng bệnh của vị đó đang mang(5). Chúng ta thấy rõ ràng rằng điều kiện thể xác cũng là một yếu tố để có một tinh thần khỏe mạnh; do đó “đúng thời” cũng có nghĩa là thời điểm khi người nghe có tình trạng thể thích hợp.

Mục tiêu của “đúng thời” là đem lại sự vui vẻ và lợi ích cho cả người nghe và người nói. Chờ đợi thời điểm thích hợp để truyền đạt không có nghĩa là tìm cơ hội tốt nhất để tạo tác động lên người nghe. Sự hiện diện của những động năng ích kỷ và lạm dụng đi ngược lại lời dạy của Đức Phật. Ngài lặp đi lặp lại rằng người nói nên được hướng dẫn bằng tâm từ bi, hoàn toàn không có động cơ lợi dụng.

Chọn thời điểm thích hợp nhất để nói là sự khéo léo có sức mạnh rất lớn trong việc hóa giải những bất hòa trong mối quan hệ.

2. Chỉ đề cập đến sự kiện

Đức Phật nói thêm rằng tránh những lời buộc tội sai lầm là bước thứ hai trong việc làm tốt cuộc đối thoại và giảm bớt những mâu thuẫn trong mối quan hệ. Theo Ngài Xá Lợi Phất, người nói cần luôn tâm niệm: “Tôi sẽ nói điều gì đã xảy ra, không nói điều gì không xảy ra”(6). Sự khéo léo này cũng bao gồm việc tránh cường điệu, phóng đại những lỗi lầm và những yếu kém của người nghe, cũng như những lời kết tội không có thật khác.

Dưới nhãn quan tâm lý học, chúng ta thổi phồng những yếu kém hay lỗi lầm của một người chính yếu là để lôi kéo sự chú ý của người đó, hoặc bày tỏ sự tức giận của chúng ta. Để nhấn mạnh sự săn sóc thích hợp cho một đứa con, người vợthể nói với chồng: “Con bị cảm cúm do anh không đắp kỹ cho nó”. Để trút giận, người chồng có thể trả đũa: “Cô lúc nào cũng nói chuyện ngớ ngẩn”. Trong trường hợp đầu, điều thật sự xảy ra là đứa trẻ bị bịnh cúm; lý do người vợ đưa ra chỉ là một sự gán cho. Trường hợp thứ hai, câu trả lời của người chồng là một câu nói chung chung, một luận điệu chung chung về một sự việc riêng lẻ. Cả hai đều nói những lời cường điệu. Cả hai đều không nói đúng chính xác “điều xảy ra”.

Sự cường điệu thể hiện dưới nhiều hình thức trong đời sống hàng ngày. Một người mẹ thấy một chiếc dĩa tuột khỏi tay người con gái có thể la lên: “Mày không bao giữ được cái gì”. Một người vợ đọc kết quả xét nghiệm sức khỏe hàng năm của chồng có thể nói: “Ông không chịu tập thể dục. Đó là lý do lượng mỡ trong máu tăng cao”. Tất cả những lời nói này đều là những lời thổi phồng, cường điệu, hoặc gán thêm.

Cách phát ngôn này một cách nào đó có vẻ xoa dịu cho người nói – mặc dù không xoa dịu chút nào cho người nghe. Có thể một người sẽ cảm thấy sự căng thẳng trong tâm của mình nhẹ bớt bằng việc tấn công bằng lời nói vào người đã tạo ra sự căng thẳng. Nhưng hầu như điều đó chỉ làm tăng thêm phản ứng ương ngạnh của người nghe. Người nghe cho rằng những lời của người nói là những lời kết tội vô căn cứ hay là những lời lăng mạ. Phản ứng đó tạo ra sự khó khăn trong việc đưa đến một cuộc đối thoại lành mạnh giữa người nói và người nghe.

Đức Phật khuyên chỉ nên nêu ra sự kiện, không thêm vào sự kiện những giải thích theo ý riêng. Khi đó hoàn cảnh sẽ thuận lợi hơn để hóa giải những mâu thuẫn một cách thân tình. Điều xảy ra đã xảy ra. Để cứu vãn mối quan hệ, tốt nhất là đừng để cho sự bất hòa lại xảy ra lần nữa.

Đề cập đến sự kiện không có nghĩa là luôn luôn phải nói về sự kiện đã xảy ra. Đức Phật nói: “Cho dù sự việc là thật, ta không nói sự thật đó khi không được người nghe đồng ý”(7). Một số sự thật nói ra không có mục đích ích lợi nào, nói ra có thể là vô ích. Để đem lại kết quả tích cực trong thái độ và cách cư xử của một người, chúng ta nên chỉ đề cập đến sự kiện, không gán ghép vào đó bất cứ điều gì khác.

3. Nói lời ôn nhu

Dùng lời nói ôn nhu, theo Ngài Xá Lợi Phất, là một khía cạnh quan trọng khác trong việc truyền đạt có kết quả việc giải tỏa những mối bất hòa. Theo Ngài, người nói nên có một thái độ dứt khoát trong việc sử dụng ngôn ngữ: “Tôi nguyện nói lời ôn nhu, không nói lời lỗ mãng, thô bạo”. Tránh sử dụng lời nói lỗ mãng cũng là một trong năm giới của người Phật tử tại gia. Sự nhấn mạnh này nói lên vai trò quan trọng của lời nói ôn nhu trong mối liên hệ hàng ngày.

“Nói lời ôn nhu” ở đây cũng chuyên chở một ý nghĩa rộng rãi. Nó bao gồm mọi thứ liên quan đến ngôn ngữ: lời nói, câu nói, giọng nói, cách nói.

Theo Đức Phật, khi chúng ta nói lời thô bạo để giải quyết mâu thuẫn, sự vô minh và sân hận thống trị tâm thức chúng ta. Ý nghĩ cho rằng sự thô bạo sẽ làm cho người nghe chịu hiểu phát xuất từ một tâm thức vô minh. Sự thật, ngôn ngữ lỗ mãng chắc chắn sẽ làm cho người nghe phản ứng và chống lại. Một số người nghĩ rằng dùng những lời lỗ mãng để buộc người nghe không nói được, họ thuyết phục được người nghe chấp nhận những ý kiến của họ. Một đứa trẻ giữ im lặng và không phản ứng khi bị cha mẹ la rầy có thể dường như đã được thuyết phục, nhưng sự thật, sự im lặng của đứa trẻ có thể là một phản kháng mạnh mẽ, nói lên sự thất bại của cha mẹ. Ngôn ngữ lỗ mãng có thể đem đến một cảm giác thỏa mãn tạm thời, nhưng nó không bao giờ giải quyết được sự mâu thuẫn.

Tâm lý học hiện đại giải thích rằng sự nóng giận, tác nhân thúc đẩy phía sau của những lời nói lỗ mãng, là một phản ứng trước những tình huống đe dọa. Nói lời giận dữ là một kỹ thuật để triệt tiêu nguồn gốc của một mối đe dọa, không phải để giải quyết sự mâu thuẫn. Ngôn ngữ, giọng điệu hung dữ biểu lộ một sự tấn công. Cảm giác rằng người nói đang tấn công mình bằng lời là cảm giác tồi tệ nhất đối với người nghe về khả năng có thể đối thoại. Ít ai khoan thứ với một sự tấn công; họ tự vệ hoặc tấn công lại. Sự thô bạo được hướng dẫn bởi lòng tức giận ít khi đưa đến kết quả tốt trong việc giải quyết những bất hòa.

Có người cho rằng lời nói hòa dịu phản ảnh sự yếu nhược, và có thể bị người nghe lợi dụng. Sự hiểu sai lạc này bắt nguồn từ việc hiểu sai khi cho rằng ôn hòa là thiếu khả năng hay nhút nhát. Tuy nhiên, lời lẽ ôn hòa không nằm trong ý nghĩa đó. Đức Phật luôn luôn dùng lời lẽ ôn hòa, nhưng Ngài cũng thấy rằng lời nói cứng rắn, dứt khoát là cần thiết. Lời nói thô bạo là một thái cực và yếu nhược là thái cực kia. Theo Đức Phật, chúng ta có thể không ở trong một thái cực nào và vẫn có thể dùng những lời lẽ dứt khoát để giải quyết những mâu thuẫn một cách có hiệu quả.

Trong Dhammapada (Pháp cú), Đức Phật khuyên nên kiểm soát lời nói, tránh những lời nói tức giận(8). Thái độ đó sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi trong việc hóa giải những mâu thuẫn bất hòa trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

4. Nhắm vào những hiệu quả tích cực

Đi xa hơn, Ngài Xá Lợi Phật còn giải thích rằng người nói cần tập trung vào mặt tích cực trong giải pháp giải quyết vấn đề. Sự tập trung này có thể đem lại những kết quả lớn trong việc hóa giải những mâu thuẫn giữa những người có mối liên hệ gần gũi. Theo Ngài Xá Lợi Phất, người nói cần luôn tâm niệm “Tôi sẽ nói vì sự lợi ích cho người nghe”. Thái độ này của người nói gợi lên hai điểm. Thứ nhứt, người nói cần biết rõ về những kết quả tích cực của giải pháp. Thứ hai, người nói cần giải thích thấu đáo cho người nghe về những kết quả tốt đẹp của giải pháp đó.

Cách giải quyết mâu thuẫn này nói lên sự việc rằng chỉ phê bình mà không có đường hướng để giúp đỡ người nghe thì sẽ thất bại. Một số người có khuynh hướng tìm lỗi của người kia chỉ để phê phán. Nhận thấy thói quen nguy hại đó, Đức Phật dạy: “Một người luôn luôn phê phán người bạn của mình, việc đó không chứng tỏ một tình bạn chân thật”(9). Khi nhận ra động cơ thúc đẩy của người nói, theo bản năng, người nghe sẽ phản bác những lời phê bình của người nói. Với một hướng giải quyết được chuẩn bị sẵn, người nói có thể làm cho người nghe chú ý lắng nghe.

Sự rõ ràng rành mạch của người nói về những hiệu quả tích cực của giải pháp thuyết phục người nghe chấp nhận cách giải quyết. Người nói cần giải thích cho người nghe lý do vì sao vấn đề cần được giải quyết, và sự giải quyết đó sẽ có lợi cho người nghe như thế nào. Người nghe có thể hiểu sai lạc việc phê bình xây dựng khi người nói không nói rõ mục đích và những kết quả tích cực trong những đề nghị của mình.

5. Nói với lòng từ bi

Sau cùng, lòng từ bithể hướng dẫn toàn bộ tiến trình đối thoại. Những người có ý tưởng, lời khuyên và giải pháp phát xuất từ lòng từ bi thường dễ giải quyết tốt đẹp những mối bất hòa. Người nói nên tâm nguyện rằng “Tôi nguyện nói với lòng từ bi, không nói với lòng tức giận”(10).

Bốn phương pháp đề cập ở trên – đúng thời, chỉ đề cập đến sự kiện, sử dụng ngôn ngữ ôn nhu, và nhắm vào lợi ích của người nghe – là những phương pháp thuộc phạm vi hùng biện, ở bên ngoài. Từ bi, thuộc tình cảm, ở bên trong và dĩ nhiên là thiết yếu.

Những phương pháp hùng biện bên ngoài là cần thiết nhưng có thể là những kỹ thuật không thích hợp trong việc sửa đổi một cá nhân. Sự nguy hiểm nằm ở chỗ người nghe có thể cảm nhận sự “thiếu tấm lòng” nơi người nói. Câu “Tôi thương anh do đó tôi muốn anh được tốt đẹp” có sức mạnh lớn trong việc ảnh hưởng một người, nhưng sự bày tỏ không bằng lời nói còn có sức mạnh lớn lao hơn.

Đôi khi chúng ta cần tự hỏi về ý hướng của chúng ta khi nói với người khác về những hành vi không đẹp của họ. Phải chăng có tác động tình cảm thật sự trong việc chăm sóc, giúp đỡ một người, hay một thứ gì khác đang giở trò? Vì sao một người vợ hay chồng luôn luôn nhắc nhở người kia về lỗi lầm mà người đó đã tạo ra trong quá khứ? Vì sao chúng ta luôn luôn sửa sai một người nào đó? Những sự việc này cần quan sát kỹ lưỡng. Một hành động sẽ có ý nghĩa và kết quả nếu nó được khởi động bằng lòng từ bi.

Những ngoại lệ

Năm bước giải quyết trong truyền thống Phật giáo không phải là những phương thuốc toàn hảo cho mọi xung đột giữa người và người. Chúng được coi như những phương pháp để có sự đối thoại khéo léo, thiện xảo, có thể dùng để giải quyết hầu hết những xung đột một cách có hiệu quả, nhưng lúc nào cũng có những ngoại lệ. Khi Ngài Xá Lợi Phất trình bày hiệu năng của năm phương pháp này, Đức Phật nêu lên một điểm quan trọng:

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, dù ông theo năm phương pháp đối thoại này, vẫn còn một số người không tán đồng những điều ông nói”(11).

Lời nói này phản ảnh cái thấy sâu xa của Đức Phật rằng năm phương pháp ở trên không thể giải quyết tất cả mọi xung đột giữa con người, và theo đó, Ngài bảo Xá Lợi Phất giải thích vì sao có một số người quá cứng cỏi và làm thế nào để đối trị.

Trả lời Phật, Ngài Xá Lợi Phất thừa nhận có một số người luôn luôn phản kháng dù năm phương pháp khéo léo trong đối thoại đã được đem ra áp dụng; và Ngài nói rằng sở tri chướng được coi là một lý do tạo ra phản ứng nơi người nghe. Đức Phật khen ngợi Ngài Xá Lợi Phất và khuyến khích Ngài phát triển những kỹ thuật được dạy để làm lợi lạc cho những người sẵn sàng lắng nghe. Điều đáng chú ý là những phương pháp đối thoại mà Ngài Xá Lợi Phất trình bày giúp giải quyết những xung đột trong tinh thần hòa bình.

Nói thêm về sự khéo léo trong việc trao đổi

1. Tránh tranh luận những vấn đề nhạy cảm

Để giảm thiểu tối đa những xung đột trong quan hệ, Đức Phật khuyên chúng ta nên tránh tranh luận về những vấn đề nhạy cảm. Những vấn đề này bao gồm những ý niệm có tính cách ức đoán, những quan điểm và tin tưởng không có cơ sở khoa học. Ngài nói rõ ràng rằng cuộc tranh luận như vậy thường chỉ tạo nên sự đối kháng thay vì đem đến sự nhất trí.

Sự trao đổi giữa Đức Phật và Kassapa, một nhà tu khổ hạnh thuộc một hệ thống tư tưởng khác, nói lên điều này. Đức Phật giữ mối quan hệ gần gũi với những vị thầy trong những tôn giáo khác, thường viếng thăm họ và có những cuộc trao đổi thân mật với họ. Trong cuộc trao đổi với Kassapa, Đức Phật khuyến cáo chỉ nên đề cập đến những chủ đề mà hai người có quan điểm chia sẻ, tránh những chủ đề gay gắt(12). Mục đích của cách tiếp cận đó là giữ mối quan hệ lành mạnh giữa người nói và người nghe.

Khi có người nêu ra những vấn đế nhạy cảm, Đức Phật đôi khi giữ im lặng. Im lặng có thể tốt hơn là tạo ra kết quả tiêu cực trong việc tranh luận. Và đôi khi Đức Phật không do dự tán đồng những quan điểm khác. Ngài coi mối quan hệ quan trọng hơn sự tranh luận về những vấn đề không đem đến kết quả tích cực nào cũng như Ngài tránh tranh luận về những vấn đề siêu hình.

Điều này không có nghĩa là Đức Phật hoàn toàn tránh né tranh luận, cũng không phải Ngài bảo đệ tử đừng bao giờ tranh luận. Trong nhiều trường hợp, Ngài đã tranh luận một cách hùng hồn về những vấn đề xã hội, chẳng hạn như vấn đề phân biệt giai cấp. Trong Digha Nikàya I, chúng ta thấy ghi lại nhiều cuộc tranh luận đầy thuyết phục của Đức Phật. Những cuộc tranh luận này cho thấy những lý lẽ đầy thuyết phục chống lại những tin tưởng và thói tục sai lầm và gây tổn hại trong xã hội. Đối với những tin tưởng và thực hành nhạy cảm có tính cách cá nhân, Đức Phật cho rằng tranh luận về những vấn đề đó là vô ích và có thể gây tổn hại cho mối quan hệ.

Ngày nay, có một số tin tưởng và thực hành về tôn giáo, chính trị và xã hội thuộc vào những nhóm này. Nếu người chồng và người vợ theo hai tôn giáo khác nhau tranh luận về niềm tin tôn giáo, sự quan hệ sẽ bị tổn thương rất nhiều. Tương tự, hai người bạn phê phán nhau về thói quen xã hội của mỗi người sẽ mở ra con đường đưa đến sự căng thẳng và bất hòa.

Để giữ mối quan hệ được tốt đẹp, Đức Phật khuyên chúng ta nên tránh tranh luận về những chủ đề như vậy. Ngài cho thấy rằng trong khi những tranh luận hợp lý lẽ có thể là cần thiết đối với những tin tưởng và hành động gây ra những hậu quả xấu, hầu hết những niềm tin tôn giáo và những thói quen xã hội đều có thể có ích. Trong trường hợp này, thay vì tranh luận, sự tiếp cận tốt nhất là tôn trọng lẫn nhau.

2. Ý thức rằng có một số cách cư xử không thể thay đổi

Để giữ mối quan hệ được lành mạnh, chúng ta có thể phải chấp nhận một số mặt không thể thay đổi trong cách cư xử của người đang sống với chúng ta. Đức Phật nhận thấy rằng hầu hết con người đều có một số yếu kém bên trong. Ngài nói: “Người không có những chứng bệnh trong tâm thật hiếm thấy”(13). Một trong những chứng bệnh này là “không nhận ra, chấp nhận, và chịu sửa đổi cách cư xử của mình”(14). Đó là bản chất của một số người, cố gắng sửa đổi của người khác chỉ đem lại sự thất vọng và mệt mỏi. Đức Phật cho thấy rằng có một số người bản chất tự nhiên là phản ứng bằng sự tức giận, ác tâm và gây hấn đối với những lời khuyên xây dựng về cách cư xử của họ(15). Trong hoàn cảnh đó, cách hay nhất là hiểu và chấp nhận một số thái độ của người sống chung là không thể thay đổi tuy rằng một cách lý tưởng, mỗi người trong mối quan hệ cần tự sửa đổi cách cư xử của mình thay vì buộc người kia phải chấp nhận. Có một số người có thể bày tỏ thái độ khó chịu không gây ra những mối đe dọa trầm trọng cho mối quan hệ. Trong trường hợp không thể sửa đổi, sự chấp nhận có vẻ thực tiễn hơn là cố gắng sửa đổi.

Đức Phật cũng nhắc nhở chúng ta rằng tự sửa mình là tính chất của một người hiền trí. Sự tự sửa như vậy cũng có thể làm giảm đi những sự không vui trong mối quan hệ. Chúng ta có thể thấy khó khăn khi muốn sửa đổi người khác theo ý muốn của mình, nhưng chúng ta có thể sửa đổi ý nghĩ và hành động của mình để thích hợp với thái độ của người khác. Chúng ta có thể rèn luyện một tâm thức tỉnh táo để có thể chấp nhận và khoan thứ khi đón nhận những điều bất đồng, nhưng không đe dọa đến mối quan hệ, từ người sống chung.

Khuynh hướng giữ im lặng của người chồng và khuynh hướng muốn bày tỏ của người vợ là điển hình của những cách cư xử đòi hỏi sự khoan dung và chấp nhận. Người vợthể muốn người chồng nghe và đáp ứng trong khi người chồng muốn người vợ bày tỏ những ý nghĩ của mình một cách đơn giản. Tuy nhiên, nếu mỗi người đều hiểu bản tính của người kia, họ có thể chấp nhận cách cư xử của người kia thay vì cố gắng thay đổi. Luôn luôn than phiền về sự không quan tâm của người chồng hay tính tự biểu hiện của người vợthể làm căng thẳng mối quan hệ. Ngược lại, kiên nhẫn, khoan dung và chấp nhận sẽ làm giảm mối bất hòa trong quan hệ.

3. Tạo cơ hội sửa đổi

Đạo Phật tin vào khả năng biết tha thứ và có thể sửa đổi của con người. Chúng ta ai cũng có lỗi lầm. Đôi khi chúng ta tạo ra những lỗi lầm trầm trọng có ảnh hưởng đến mối quan hệ của chúng ta. Đức Phật luôn luôn khuyên đệ tử biết tha thứ những lỗi lầm và tạo cơ hội sửa đổi cho người gây lỗi. Cách cư xử này sẽ đưa đến việc xây dựng một mối quan hệ gắn bó hơn.

Lời khuyên này không có nghĩa là phải quên hết mọi lỗi lầm trầm trọng của người vợ hay người chồng, bạn bè, hay những người thân. Nó có nghĩa là những lỗi lầm quá khứ của một người sẽ không làm cho người đó bị kết án là một kẻ xấu ác cố hữu và không thể có mối quan hệ lành mạnh. Chúng ta có thể học hỏi từ những sai lầm của chúng ta. Chúng ta có khả năng tiến hóa, và chúng ta có thể vượt qua quá khứ không tốt đẹp để trở nên tốt đẹp hơn:

Có những người biếng nhác trong quá khứ, trở nên cảnh giác và tiến bộ. Họ làm sáng thế giới giống như mặt trăng khi ra khỏi đám mây(16).

Đức Phật tỏ ra rất tin tưởng khả năng tiến bộ của con người. Và tạo cho người khác cơ hội để tiến bộ có thể là cách tiếp cận khôn ngoan trong việc hóa giải những bất hòa.

Cách tiếp cận này có thể là cách tiếp cận thích hợp trong việc làm sâu đậm mối quan hệ hơn những cách khác. Nhiều người trong mối quan hệ kỳ vọng người chung sống trung thành nhưng những kỳ vọng đó không phải luôn luôn được đáp ứng. Sự bất tín không phải là không phổ biến trong xã hội của chúng ta. Một người càng yêu người kia thì càng bị phiền muộn nhiều hơn khi khám phá ra những điều tuột ra ngoài sự kỳ vọng của mình. Nền văn hóa của chúng ta khuyến khích chúng ta dày vò “người có tội” một cách tàn nhẫn. Tuy nhiên, khi chúng ta để chúng ta miệt mài trong oán giận, chắc chắn chúng ta sẽ chấm dứt mối quan hệ trong đau đớn. Một cách giải quyết khéo léo là làm cho người kia hiểu rõ hơn về bản chất lỗi lầm của người đó và cho phép thời gian sửa đổi.

Đức Phật nói rằng sự hấp dẫn của người khác phái là khuynh hướng mạnh nhất nơi con người. Ngài nói: “Ta không thấy một cái nhìn, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm nào lôi cuốn trái tim của người đàn ông hơn phụ nữ”(17). Một người nữ cũng bị người nam lôi cuốn như vậy(18). Việc đó có thể được coi là tự nhiên. Tuy nhiên, con người cũng phát triển một lối tư duy thực tiễn để chống lại những khuynh hướng bản năng. Khi được ban cho cơ hội, con ngườithể hiểu ra những lợi ích của việc tiếp cận thực tế với những thôi thúc bản năng. Sự hiểu biết đó có thể giúp con người sửa chữa những sai lầm làm tổn hại mối quan hệ thân thiết.

Bước quan trọng nhất để sửa mình và làm cho mối quan hệ thêm gắn bó là “nhìn thấy lỗi lầm như nó là, chấp nhận lỗi lầm, và quyết định không tái phạm”(19). Khi chúng ta thực hiện điều này, chúng ta được Đức Phật gọi là pandita – người hiền trí.

4. Tìm một cuộc chia tay hài hòa

Trong mọi sự đều có ngoại lệ. Trách nhiệmbổn phận, khéo léo trong trao đổi, và những kỹ thuật khác là những phương tiện làm giảm, không phải là triệt tiêu, những mâu thuẫn trong một mối quan hệ. Mặc dù với những cố gắng chân thật, một số người thấy rằng vấn đề của họ không thể giải quyết. Đức Phật dạy gì về mối quan hệ không vui và không ai muốn này? Ngài dạy gì cho đệ tử về việc đối xử với những người không còn gần gũi với mình?

Đức Phật nhìn thấy những lý do đưa đến sự chấm dứt chính đáng một mối quan hệ: người kia cứ tiếp tục những hành vi sai trái không kiềm chế, có sự nguy hiểm do mối quan hệ gây ra, nhận thấy một sự vô ích trong việc kéo dài mối quan hệ. Trong mỗi trường hợp vừa nêu, Đức Phật chấp nhận quyền chọn lựa cá nhân trong sự quyết định. Ngài khuyên đệ tử rút lui khỏi những mối quan hệ không thích hợp như vị vua rút khỏi vùng đất bị chiếm(20).

Tuy nhiên, sự chấp nhận tự donhân này không có nghĩa là tán đồng những quyết định vội vàng, sắt đá, không hài hòa; thay vì vậy, những sự cân nhắc hợp lý và hợp đạo đức phải được đặt ra trước khi có sự quyết định sau cùng. Người đó phải chắc chắn rằng quyết định của mình sẽ đem đến lợi ích, thay vì sẽ đem đến kết quả trái ngược, cho những người có liên quan trong mối quan hệ, kể cả bản thân người quyết định. Ai cũng có quyền chấm dứt mối quan hệ nếu quyết định đúng chuẩn mực.

Lời khuyên của Đức Phật với Upali (Ưu Ba Li), một đệ tử cũng là một người bạn của Giáo chủ Kỳ Na Giáo là Mahavira, chứng tỏ việc này. Theo yêu cầu của thầy, Upali đến chỗ Đức Phật để tranh luận. Tuy nhiên, sau khi nghe Đức Phật, Upali nhận thấy giáo pháp của Phật có giá trị hơn của Mahavira và muốn trở thành đệ tử của Ngài. Đức Phật nói: “Ông nên suy nghĩ thêm về quyết định của ông; đối với người đáng tôn kính như ông, tốt hơn là suy nghĩ và thẩm định về quyết định của mình”(21). Sau khi Upali thưa với Đức Phật rằng quyết định của ông đã được cân nhắc kỹ lưỡng, Đức Phật cho phép ông được rời bỏ Mahavira và trở thành đệ tử của Ngài. Sự lựa chọn cá nhân có suy nghĩ chín chắn và hợp lý của Upali là tác nhân chính yếu đưa đến quyết định của ông.

Việc này cũng áp dụng được cho những mối quan hệ khác. Trong thời Đức Phật, có những người nam cũng như nữ đã có gia đình muốn từ bỏ người hôn phối, sống cách biệt để thực hành phạm hạnh. Đức Phật không bao giờ ngăn cản nếu sự tu hành của họ không phương hại đến đời sống của người còn lại và con cái họ. Đức Phật khuyên Ugga, một người giàu có, chu cấp và đùm bọc những người vợ của ông trước khi rời xa họ(22). Đức Phật không bao giờ cho rằng một người có thể từ bỏ vợ hay chồng để tìm những thú vui khác. Tuy nhiên, Ngài nói rõ rằng một cuộc chia tay hài hòa khỏi một mối liên hệ không vừa ý có thể tốt hơn là cứ tiếp tục.

Đức Phật cũng có những lời khuyên cho những người sau khi chia tay người sống chung hay bạn hữu. Cuộc nói chuyện của Ngài với Kesi, một người huấn luyện ngựa, cho chúng ta thấy rằng cần phải từ bỏ sự oán ghét và thù hằn đối với người sống chung ngày xưa, dù người đó đã tạo ra những đau buồn phiền muộn trong mối quan hệ. Kesi nói với Đức Phật rằng ông sẽ giết những con ngựa không muốn hợp tác trong việc huấn luyện. Đức Phật nói với Kesi rằng đối với Ngài, Ngài không quan tâm đến những người không thể thuần thục hay không chịu hợp tác(23).

Trong giáo pháp của Đức Phật, sự theo đuổi hận thù không bao giờ được khuyến khích, ngay cả khi người đó bị lạm dụng hay bị làm tổn thương trong mối quan hệ. Đức Phật dạy rằng, một người không thể tìm thấy bình an khi vẫn còn vướng mắc trong những sai quấy của người khác trong quá khứ(24). Dĩ nhiên cần có những phản ứng thích hợp trước những hành vi sai trái, nhưng như Đức Phật nhìn thấy, đeo đẳng chạy theo sự oán hận chỉ làm trầm trọng thêm nỗi đau do mối quan hệ không được hạnh phúc gây ra. Có những người làm cho cuộc sống của họ khổ đau với việc không chịu thoát ra khỏi mối quan hệ đã đổ vỡ, trong khi họ có thể tìm thấy sự hài hòa trong cuộc sống bằng cách biết tha thứ và quên đi.

Kết luận

Đức Phật và đệ tử của Ngài là Xá Lợi Phất đã đưa ra những hướng dẫn giá trị để giải quyết một cách hòa bình những mâu thuẫn trong cộng đồng Tăng già. Những hướng dẫn này cũng áp dụng hiệu quả cho những người sống chung trong những mối quan hệ xã hội khác. Trau dồi sự khéo léo trong giao tiếp, phát triển những cách cư xử khôn khéo là những điều cần thiết cho mục tiêu này. Đức Phật nhấn mạnh rằng, hầu hết những vấn đề xảy ra trong mối liên hệ gần gũi đều có thể giải quyết tốt đẹp bằng những phương pháp Ngài nêu ra. Tuy nhiên, vẫn có một số quan hệ không thể giải quyết, dù người trong cuộc hết sức cố gắng. Trong trường hợp này, chia tay có thể là một giải pháp tốt nhất để giải phóng những người trong cuộc thoát khỏi gánh nặng của những xung đột. Sự chia tay không nên được coi là một cách trả thù, nhưng là một cách để có thể đem lại sự tốt đẹp cho mình và cho những người khác liên quan trong mối quan hệ.

Bhikkhu Basnagoda Rahula – Thị Giới dịch

(1) Anguttara Nikaya V: Sona Vagga: Subhasitavaca Sutta. (2) Majjhima Nikaya I: 27: Culahatthipadopama Sutta. (3) Dhammapadathakatha: Sashassa Vagga: Kisagotamya Vatthu. (4) Dhammapadatthakatha: Sukkha Vagga: Annatarassa Upasakassa Vattha. (5) Dhammapadatthakatha: Citta Vagga: Putigattatissatthera Vatthu. (6) Aguttara Nikaya V: Aghata Vagga: Codana sutta. (7) Majjima Nikaya II: 58: Abhayarajakumara Sutta. (8) Dhammapada: kệ 232. (9) Sutta Nipata: Cula Vagga: Hiri Sutta. (10) Anguttara Nikaya V: Aghata Vagga: Codana Sutta. (11) Ibid. (12) Digha Nikaya I: 8: Maha Sidanada Sutta. (13) Anguttara Nikaya IV: Indriya Vagga: Roga Sutta. (14) Anguttara Nikaya III: Bala Vagga: Accaya Sutta. (15) Anguttara Nikaya III: Puggala Vagga: Vajiropama Sutta. (16) Majjhima Nikaya II: 86: Agulimala Sutta. (17) Anguttara Nikya I: Ekaka Vagga:1. (18) Anguttara Nikya I: Ekaka Vagga:2. (19) Anguttara Nikaya III: Bala Vagga: Accaya Sutta. (20) Dhammapada: 329. (21) Majjhima Nikaya II: 56: Upali Sutta. (22) Anguttara Nikaya VIII: Gahapati Vagga: Hatthigamaka Ugga Sutta. (23) Anguttara Nikaya IV: Kesi Vagga: Kesi Sutta. (24) Dhammapada: kệ 3.

Nguồn: https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=724243  

Hoặc: http://diendan.nhantrachoc.vn/index.php?threads/duc-phat-day-ve-hoa-giai-bat-hoa.7587/

Làm sao để có Phước Đức và giữ nó thế nào

“Có Đức mặc sức mà ăn”

ma-an-640x400.jpg" alt="[​IMG]" data-url="https://botatquanam.com/wp-content/uploads/2017/06/co-duc-mac-suc-ma-an-640x400.jpg" />

Người xưa có điều rằng: “Có đức mặc sức mà ăn”, học được cách tích đức, tức là ta đã học được cách cải biên số phận của mình, mang lại phước lộc dồi dào. Vậy làm thế nào để tích đức ngay cả khi không có điều kiện vật chất? Dưới đây là 20 cách tích đức cải tạo vận mệnh mà ai cũng làm được

Nên biết 20 cách tích đức cải tạo vận mệnh dễ hiểu dễ làm
By Từ Tâm –10/06/2016

1. Tích đức từ lời nói

Lời nói cần phải thể hiện sự khoan dung độ lượng đối với người khác. Lời nói thẳng: Có thể chuyển sang cách nói “vòng, nói giảm, nói tránh” một chút. Lời nói lạnh như băng: Hãy hâm nóng lên một chút trước khi nói. Lời nói phê bình người khác: Trước khi nói hãy chú ý cân nhắc đến lòng tự tôn của người nghe. Một lời khen ngợi đúng lúc có giá trị ngàn vàng.

2. Tích đức từ việc giữ lễ tiết

Người có lễ tiết đi khắp thiên hạ cũng khó có người trách mắng, không ưng ý.

3. Tích đức từ chung thủy

Phàm là vợ chồng, nên sống chung thủy, không ngoại tình, không hãm hại hôn nhân của người khác, nếu ta làm vậy thì về sau bản thân ta và con cháu luôn bị người khác phản bội và phá hoại hạnh phúc của mình. Rồi lại sẽ gặp quả báo đau khổ.

4. Tích đức từ tính cách khiêm nhượng

Người xưa nói: Người kiêu căng ngạo mạn, thích thể hiện tài năng thì đi đâu cũng có kẻ địch. Tránh khoe khoang tài năng của mình mọi lúc mọi nơi. Buông bỏ kiêu căng, giảm bớt tự kỷ. Không nên ở trước mặt người đang thất ý mà đàm luận về đắc ý của mình. Làm người, trước là đừng khoa trương tùy tiện, sau đừng đắc ý, nên khiêm nhượng một chút.

5. Tích đức từ việc cứu người

Khi gặp người bị nạn, gặp khó khăn, rơi đồ xuống đường, nên đến giúp đỡ, nếu ta bỏ đi thì ắt về sau sẽ gặp quả báo.
Nhìn thấy những đoạn đường hư, lở,… Chúng ta nên mở lòng bồi đường, đắp lộ để cho nhiều người đi qua được bình an.

6. Tích đức từ việc hạn chế sát sinh

Sát sinh là tội ác thất đức trên đời. Nên buông dao xuống và nhớ rằng: Sinh mạng của chúng cũng như chúng ta, ăn đồ sát sinh, nên nghĩ đến là khi cầm dao giết nó, nó đã kêu lên thảm thiết và đau đớn cầu xin chúng ta như thế nào, nó chẳng khác gì chúng ta khi bị kẻ thù cầm dao cắt cổ rồi ăn xác chết của nó.

7. Tích đức từ việc làm ăn lương thiện

Nếu kinh doanh mà làm ăn lừa đảo, trốn thuế, cân sai, ăn bớt, thay linh kiện kém, sản phẩm gây độc hại cho nhiều người sử dụng, dùng âm mưu hãm hại đối thủ, bán cho xong tay, rồi mặc cho sự đau khổ của người khác thì những việc làm thất đức của bản thân, về sau ta và con cháu của ta phải gánh chịu Quả Báo rất nặng. Làm ăn chân chính và Tích Đức thì có Phúc lớn về sau.

8. Tích đức từ việc thành thật với mọi người

Không thành thật sẽ khó tồn tại, người giả dối tất sẽ không có bạn chân thành. Luôn lấy thành tín làm gốc, coi trọng thành tín trong mọi mối quan hệ. Dùng thành tín thu phục người khác, sẽ dễ đạt được thành công. Một người nếu như mất đi sự thành thật thì làm việc gì cũng khó. Bất kể lý do gì cũng không thể giải thích được lý do sự giả dối của bản thân.

9. Tích đức từ việc tôn trọng người khác

Đem lòng tự tôn của người khác đặt ở vị trí cao nhất. Cố gắng để người khác cảm nhận thấy sự tôn nghiêm của bản thân mình. Tôn trọng người yếu kém hơn mình càng là đáng quý. Địa vị càng cao thì càng không thể khinh thường người khác.

10. Tích đức từ giữ thể diện cho người khác

Ở một số tình huống việc “không nể mặt” là một thái độ vô lễ lớn nhất.
Người phương đông rất xem trọng thể diện vì vậy ở bất cả thời điểm nào cũng nên giành cho người khác một “lối thoát” để giữ thể diện.

Nhìn thấy rõ một người cũng đừng nên chỉ thẳng ra, hãy lựa lúc mà nói.
Hãy nhớ đừng bao giờ làm tổn thương thể diện của người khác bởi hậu quả của nó là khôn lường.

Trong một số tình huống, vạch trần người khác là một cái tội đẩy người ta đến đường cùng.

11. Tích đức từ việc tín nhiệm người khác

Người có tính đa nghi trời sinh thì khó có người bạn chân thành.
Được người khác tin tưởng, tín nhiệm là một loại hạnh phúc.
Người có bao nhiêu tín nhiệm thì sẽ có bấy nhiêu cơ hội thành công.
Người xưa nói: “Đã nghi ngờ người thì không kết giao, đã kết giao thì không nên nghi ngờ người.”

12. Tích đức từ việc cho người khác sự thuận lợi

Cho người khác được lợi cũng chính là làm lợi cho mình.

Thời điểm người khác cần bạn nhất, hãy sẵn sàng cho họ một bờ vai để nương tựa.
Suy nghĩ cho người khác cũng chính là suy nghĩ cho bản thân mình.

13. Tích đức từ việc hiểu người khác

Mọi người, ai cũng mong muốn người khác hiểu và thừa nhận mình.Hiểu người khác cũng chính là một cách đem lại lợi ích cho người khác.

14. Tích đức từ việc giúp đỡ người khác

Ở vào thời khắc quan trọng, ai mà không hy vọng có người trợ giúp mình?
“Vì người khác” sẽ luôn luôn chiến thắng “vì mình”.
Lòng tốt sẽ luôn luôn được người khác khắc sâu, nhớ kỹ.
Khi giúp đỡ người khác cũng phải tìm cách để đối phương vui cười mà tiếp nhận.

15. Tích đức từ việc biết cảm ơn người

Cảm ơn là một cách ngợi ca cuộc đời.

Trong cuộc sống, lời cảm ơn kịp thời sẽ khiến mọi người thân thiện với nhau hơn.
Cảm ơn đối thủ là một cách thể hiện của người có chí khí.

16. Tích đức từ đôi tay

Học cách ca ngợi, vỗ tay tán thưởng người khác.
Mỗi người đều cần tiếng vỗ tay của người khác bởi vì ủng hộ, khen ngợi người khác là điều cần có ở mỗi người.
Không biết vỗ tay, khen ngợi người khác thì đời người thực sự quá nhỏ hẹp.
Cho người khác tiếng vỗ tay kỳ thực là cho chính bản thân mình.

17. Tích đức từ lòng nhân ái của bản thân
Mỗi người đều nên tu dưỡng lòng nhân ái trong mình. Bởi người có tấm lòng nhân ái luôn sống nhẹ nhàng mà lại dễ dàng nhận được sự hợp tác từ người khác.

18. Tích đức từ lòng lương thiện

Không có ai là không muốn làm bạn, làm hàng xóm hay hợp tác với người có tấm lòng lương thiện.

Người lương thiện có thể thu phục người khác. Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm.

19. Tích đức từ sự biết lắng nghe

Người xưa có câu: “Nhìn nhiều, nghe nhiều và nói ít”. Người biết lắng nghe thường được lòng người khác bởi lắng nghe là một cách lấy lòng người khác tốt nhất.

20. Tích đức từ lòng khoan dung

Không thể khoan dung người khác có thể là bởi vì lòng dạ của mình còn quá nhỏ hẹp! Dùng khoan dung có thể cải biến một con người lầm lỗi. Người có lòng khoan dung sẽ dễ dàng chiếm được lòng người khác. Hãy học cách tha thứ khuyết điểm của người khác. Đôi lúc, một quan hệ tốt đẹp là từ nhẫn mà sinh ra đấy!

Nguồn: https://botatquanam.com/co-duc-mac-…ach-tich-duc-cai-tao-van-menh-de-hieu-de-lam/

Nhân Quả Qua Việc Xem Bói toán số mệnh

PHẬT PHÁP TRONG ĐỜI SỐNG
Tâm Diệu – Nhà xuất bản Hồng Đức 2014

4

QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ VẤN ĐỀ XEM TỬ VI BÓI TOÁN

Có lẽ ai cũng biết rằng tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai đời người về vận mạng, tình duyên, gia đạohọc hành thi cử, thời vận thịnh suy, tốt xấu và chọn hướng nhà đất thích hợpbao gồm cả việc so đôi tuổi và hóa giải sự xung khắc vợ chồng, chọn ngày giờ tốt để khai trương, cưới hỏi, cùng là giải hạn xấu, dựa theo một vài yếu tố như ngày, giờ, tháng, năm sinh của người xin coi bói toán.

Trong thời đại ngày nay, vì lo lắng cho tương lai nhiều bất trắc, rất nhiều người muốn biết hậu vận nên việc xem tử vi bói toán ngày càng phổ biến. Giới làm ăn buôn bán cũng dựa vào chiêm tinh để quyết định công việc đầu tư và làm ăn. Những người khác từ việc mua nhà, đi xa, dựng vợ, gả chồng, cho đến việc tang ma…đều tìm đến những người coi bói toán để tham vấn, hầu dựa vào những lời khuyên đó mà làm theo. Tử vibói toán, đồng cốt đang lan rộng ra nhiều người, nhiều giới và nhiều nơi.

Khoa tâm lý học cho rằng, những người này thường là những người có “vấn đề” hoặc là về gia đạo, hay công danh sự nghiệp không như ý, hay cũng có thể đang lo toan một điều gì không rõ nét. Họ cũng có thể là những người thường có tâm mong cầu và tâm sợ hãi, cùng là thiếu niềm tin nơi chính mình và lại hay tin vào việc bói toán hoặc tin vào một đấng thần linh, tin vào một định mệnh hay số mệnh đã an bài, và nếu là một Phật tử thì họ xem ông Phật như một vị thần linh tối cao có thể ban vui giáng họa.

Có nhiều hình thức bói toán, nhưng có ba loại phổ thông đối với người Á Đông chúng ta. Đó là bói bài, xem lá số tử vi và lên đồng nhập cốt. Việc coi lá số tử vi là dựa trên sự tương tác của các ngôi sao vào lúc người đó chào đời, những ngôi sao này mang một số đặc tính nhất định do con người đặt raxem như là thần linh hoặc là các thần linh trấn giữ các ngôi sao đó. Bói bài là dựa vào việc giải đoán những dấu hiệu do con người vẽ ra nơi những con bài. Còn bói qua việc lên đồng là để một vong linh người chết nào đó nhập vào và làm trung gian truyền thông ban bảo các lời khuyên hoặc hướng dẫn những ai đang cần giúp đỡ.

Ngày nay ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Tây, sách báo về khoa bói toán nhiều vô số. Hầu hết những lời tiên đoán đều có tính chất chung chung, vô thưởng vô phạt, nhưng những người tin thường có tâm lý suy đoán và áp dụng cho trường hợp riêng mình, cho nên đôi khi họ cảm thấy đúng.

Vấn đề cần nói là chính việc xem bói toán, tử vi hoặc trực tiếp đến với các nhà coi bói hoặc gián tiếp qua sách báo, thì người tham dự cũng đều trực tiếp và tự nguyện tham gia vào những sinh hoạt thuộc lĩnh vực tâm thần, và đó là một lời mời rõ ràng, một cách mở cửa cho những tư tưởng vui buồn lo sợ xâm nhập, dễ sinh ra các áp lực trong tâm trí và trong đời sống, khiến cho một ngày kia người đó có thể rơi vào tình trạng xáo trộn tâm lý như có những nỗi sợ hãi ám ảnh trong cuộc sống và những nỗi buồn kinh niên. Ngay cả việc coi ngày tốt xấu cho việc quan hôn tang tế cũng có những hậu quả tiêu cực. Việc định ngày tốt xấu ghi trên lịch sách hoàn toàn không có cơ sở.  Vì lợi ích kinh doanh, các nhà làm lịch sách đặt thêm phần coi ngày tốt xấu vào. Họ tự đặt ra ngày này nên làm việc này, ngày kia không nên làm việc nọ, rồi những người dễ tin tin theo. Việc tốt xấu là do nơi con người tạo tác. Một bằng chứng cụ thể là đa số người Tây phương không cần coi ngày tốt xấu khai trương cửa hàng, nhưng họ vẫn thịnh vượng phát đạt. Họ không có thờ thần tài, thờ ông địa, nhưng họ vẫn làm ăn buôn bán, phát tài như thường. Họ chỉ tính toán ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch làm việc, theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp.

thể khởi đầu chỉ là một chút tò mò muốn biết hậu vận mai này ra sao nhưng sau đó người đó sẽ bị tác động không chỉ về phương diện tâm lý mà bị chính quyền lực của sự u tối, của tà linh, của mê tín điều khiển, khiến cho người đó tưởng như không thể thoát ra khỏi số phận đã tiên đoán cho đời mình, rồi có thể hành động một cách ý thức, dẫn đến một kết thúc bi thảm. Như trường hợp một bà mẹ đã bắn chết đứa con của mình, vì ông thầy coi lá số tử vi của bà tiên đoán đứa con đang bị bệnh tâm thần của bà, sẽ không bao giờ lành mạnh, vì thế bà đã hạ sát con để cho nó khỏi khổ! Người đàn bà này đã bị bắt, bị kết án, trong khi nhà coi bói tiên đoán cho bà vẫn được tự do hành nghề.

Cũng có thể do sự tin tưởng mù quáng, khiến con người mất hết sức phán đoán và trí thông minh mà người ta thường gọi là mê tínMê tín đem lại những tai hại không thể lường trước được. Nó có thể làm hại cuộc đời con người, có thể làm tan nát cả gia đình, có thể làm suy sụp chuyện quốc gia đại sự. Như trường hợp một người vợ ghen bóng ghen gió, đi xem bói tử vi. Thầy bói nói chồng có nhân tình, trong lá số có sao đào hoa chiếu mệnh bèn tin ngay, không cần suy xét, không chịu tìm hiểu hư thực thế nào, thế là bà tức giận, ghen bóng ghen gió với người tình không có thực của chồng. Thế là hai vợ chồng cãi vã nhau, đưa đến hậu quả là gia đình tan nát do việc mê tín coi bói của người vợ. Hoặc có trường hợp đôi trai gái yêu nhau thắm thiết song chỉ vì một lời của thầy mà hai gia đình kiên quyết không cho lấy bởi “Có lấy được thì cũng sớm tan vỡ thôi” cho nên ca dao Việt Nam có câu:

Tay cầm tiền của bo bo

Đi coi thầy bói mang lo vào người.

Vậy quan điểm của Phật giáo đối với các vấn đề bói toán tử vi như thế nào?

Xin trả lời là đạo Phật là đạo giác ngộ giải thoát, là đạo chánh tín, không phải đạo mê tín. Việc coi bói toán tử vi, lên đồng nhập cốt không có mặt trong giáo lý nhà Phật. Cái mà mọi người thường gọi là số mạng tức là nghiệp lực trong Phật giáo. Nếu chúng ta tin có nghiệp lực thì tự nhiên là phải có số mạng, nhưng đức Phật dạy mọi sự đều do tâm tạo. Chỉ cần tâm an ổn thì chỗ nào cũng yên.

Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ, xem sao và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Ấn Độ không có môn tướng số và bói toán tử vi, tuy có dạy các môn thế học như là Ngôn Ngữ học, Thủ Công Nghệ học, Y học và Luận Lý học.

Theo quan điểm Phật giáo thì vấn đề tai họa hay sung sướng, khổ đau hay bất hạnhgiàu có hay nghèo khổ đều do nhân thiện ác mà chúng ta gieo trồng từ nhiều đời sống trước rồi đời này hay đời sau chịu quả báo. Lại cộng thêm sự nỗ lực hay lười biếng trong đời sống hiện tại mà có thể thay đổi hoặc ảnh hưởng đến vận mạng của đời này hay đời sau. Do việc gieo nhân khác nhau trong đời trước mà tiếp nhận hoàn cảnh khác nhau trong đời này. Cái gọi là hoàn cảnh cũng bao gồm cả di truyền của cha mẹ, bối cảnh văn hóavăn minhnuôi dưỡng và giáo dục, anh em, họ hàng, thầy bạn và đồng nghiệp. Tất cả đều ảnh hưởng đến vận mạng của cả một cuộc đời. Dù cho nhân tạo ra ở đời trước là xấu, dẫn tới hoàn cảnh hiện tại nhưng nếu có sự tu tập về mặt nội tâm và luyện tập thân thể tốt, trau dồi thêm ý thức mở mang trí tuệ thì vận mạng cũng sẽ biến đổi theo chiều hướng tốt.

Phật giáo quan niệmcon người không phải do một đấng thần quyền nào đó tạo ra, có thể bị sai sử, bị thưởng phạt, cho sống hay cho chết. Người Phật giáo không tin vào cái gọi là “định mệnh” an bài.  Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên. Tiến trình nhân và quả không do một nhân vật toàn năng nào điều khiển và định đoạt mà do hành động qua thân, khẩu và ý của chúng ta hằng ngày. Đó là một định luật tự nhiênChúng ta trách nhiệm về những hành động chúng ta làm, thì chúng ta cũng phải gánh trách nhiệm về hậu quả của những hành động ấy. Việc chấp nhận ở đây không có nghĩa là tự mãn hay cam chịu với cái gọi là “số mệnh” an bài, bởi vì chúng ta có quyền tự do làm thay đổi và khắc phục những sự việc hay kết quả mà chúng ta không ưa thích. Như chúng ta thi rớt, chúng ta phải cố gắng luyện thi lại, thế nào cũng đạt đượcChúng ta làm chủ tạo nhân, chính chúng ta làm chủ thọ quả. Chỉ cần sáng suốt khi tạo nhânchịu khó chăm sóc tốt cho nhân tăng trưởng, thì quả chín ngon ngọt sẽ đến tay chúng ta một cách dễ dàng. Đó là lý nhân quả, nếu chúng ta tin sâu và tin chắc lý này, chắc chắn sẽ không còn mê tín mà đi coi bói toán tử vi hay đi xin xăm cầu đảo.

Một vị cao Tăng người Trung Hoa là Trí Khải Đại sư, trong bài tựa cuốn “Đồng Mông Chỉ Quán”, kể trường hợp chú Sa Di trẻ đệ tử của vị trụ trì đã chứng quả A La Hán. Vị trụ trì biết trong vòng một tuần nữa đệ tử mình sẽ chết, không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho đệ tử mình về thăm nhà. Chú Sa di trên đường về nhà thấy một ổ kiến lớn trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy đe dọa cuốn trôi đi. Chú Sa Di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức đắp lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, chú Sa Di tiếp tục lên đường về thăm nhà và sau một tuần trở lại chùa. Vị thầy trụ trì thấy đệ tử trở lại chùa bình an, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, bèn hỏi chú Sa Dituần lễ vừa qua đã làm những gì. Sau một hồi nhớ lại chú Sa Di đã tường thuật cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu một ổ kiến lớn thoát chết. Vị trụ trì kết luận là do chú Sa Diphát tâmtừ bi rộng lớn cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.

Do câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng không có một cái gì là cố định, không có một cái gì là định pháp hay định mệnhtâm thức chúng ta biến chuyển từng sát na và do đó nghiệp thức lẫn nghiệp quả cũng thay đổi từng sát na. Nếu các ông thầy bói toán tử vi tướng số nói những gì xảy ra trong tương lai mà chúng ta tin, tức là chúng ta tin rằng muôn sự muộn việc là thường chứ không phải là vô thường và là định pháp chứ không phải là bất định pháp, tức là chúng ta mù quáng mà phủ nhận định luật nhân quảvà giáo pháp vô thường của Phật dạy.

Tóm lại, đối với việc coi tử vi bói toán, cũng như việc xin xăm cầu đảo là những việc làm có tính cáchmê tín, không có chỗ đứng trong Phật giáo. Người Phật tử được khuyên bảo cẩn trọng đừng để rơi vào hố sâu mê tín dị đoan khiến tâm bị rối loạn bởi sự sợ hãi không cần thiết. Một thời tọa thiền hay niệm Phật hằng ngày giúp ích rất nhiều để tự thanh lọc tư tưởng bất thiện trong tâm. Tâm được thanh lọc tự động dẫn đến một thân thể trong sạch và khỏe mạnh. Pháp Phật là liều thuốc chữa khỏi các loại tâm bệnh này. Một phút giây tâm được tịnh là ngưng tạo bao nhiêu nghiệp, ngưng gieo bao nhiêu nhân và xa bao nhiêu dặm khổ ải.

Trong kinh Pháp Cúđức Phật có dạy:

“Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.” (127)

Nếu như con người hàng ngày không làm các việc lành thiện, chỉ lo tạo tội, tạo nghiệp, trong cuộc sống đấu tranh giành giựt, khi quả báo đến, không ai có thể tránh được, dù cho có lên non xuống biển hay trốn vào hang núi.

Nguồn: https://thuvienhoasen.org/p22a21698/04-quan-diem-cua-phat-giao-ve-van-de-xem-tu-vi-boi-toan

 

QUẢ BÁO CỦA THẦY BÓI GẠT NGƯỜI CẦU LỢI 
Quảng Tánh

xem boi

Ảnh minh họa

Có người chỉ xem bói như một sự giải trí, có người xem bói như một sự tham khảo, có người xem bói để củng cố nghị lực và niềm tin, có người xem bói và tin tưởng chắc chắn vào lời thầy bói phán dạy. Sự thật là, trừ người có thần thông hay tinh thông các thuật toán mà vẫn chưa chắc đúng, còn lại thì hầu hết thì chỉ phán và dọa mà thôi.

Có điều, nhân loại cũng hình thành một thói quenlà những gì thầy bói đoán đúng thì tung hô, đồn thổi xem thầy bói như thần thánh giáng phàm, người người khắp nơi tìm tới. Ngược lại, những gì thầy nói chưa đúng thì họ mặc nhiên im lặngxem như không đủ phước phần. Nên thầy bói từ xưa đến nay nếu có chút tài rồi chủ tâm gạt người cầu lợi thì vẫn sống khỏe. Tuy vậy, nếu không biết hồi tâm thì trước mắt có an nhàn nhưng về sau chịu quả nặng nề.

“Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… Tôn giả Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân tự chuyển động xoay như gió xoáy, đi giữa hư không… Phật bảo các Tỳ-kheo:

Chúng sanh này, vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm người bói toán mê hoặc nhiều người để mưu cầu tiền của. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục nên nó phải chịu cái thân như vậy, tiếp tục chịu đau khổ.

Này các Tỳ-kheo, như những gì Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chân thật không khác. Các ông cần nên ghi nhớ.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.

(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 521)

Đức Phật là bậc đã thấu triệttoàn tri về quy luật nhân-duyên-quả. Dù nặng hay nhẹ, hình thức này hoặc hình thức khác, sớm hay muộn thì quả vẫn xảy ra một cách đúng đắn và tương ứng với nhân. Nhiều loại hình nhân quả không xảy ra ở hiện đời (hiện báo) thì xảy ra ở đời kế tiếp (sinh báo) hay những đời tiếp sau nữa (hậu báo). Thế nên những ai dối đời, gạt người để tư lợi thì sớm muộn gì họ cũng chịu quả báo đau khổ. Nhất là những người lợi dụng sự u mê, nhẹ dạ, cả tin mà bày trò bói toánmê hoặc, dối gạt người đời để mưu cầu tiền của thì chịu quả báo địa ngục. Sau khi mãn quả báo địa ngục tái sinh làm quỷ ‘thân tự chuyển động xoay như gió xoáy, đi giữa hư không’.

Sự thật nhân quả này đã được Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, bậc Thần thông đệ nhất thấy rõ, thuật lại và đã được Đức Phật xác chứng. Đây là lời răn cho những ai mượn việc xem bói rồi bày ra đủ trò dối gạt để mưu cầu danh lợi. Ngày nay, ngoài những người làm nghề thầy bói, một số vị Phật tử tại gia lẫn xuất gia tu hành cũng bói toán cho người; có vị cũng nức tiếng hay được mọi người quy kính. Riêng nhóm này, nếu ai vận dụng được phương tiện thiện xảo (dĩ huyễn độ chơn), nương vào sự mê bói toán của người để khuyến hóa họ bỏ ác làm lành tu tâm tích đức thì khả dĩ chấp nhận được. Còn nếu sinh tâm cầu lợi dưỡng và cung kính mà tập tành theo thế tục thì nên hồi tâm bởi quả báo nặng nề.

Quảng Tánh
Thư Viện Hoa Sen

Học và thực hành Phật Pháp đúng cách = Phát Nhiệm mầu

CÂY ĐÈN KỲ LẠ
(Bà lão nghèo đức độ, chí thành và phát đại nguyện khi cúng dường Phật_Nhiệm mầu không thể nghĩ bàn)

Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật và bàn một vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ hôm ấy:

Câu chuyện mở đầu trong bữa tiệc là những lời sau đây do vua A Xà Thế phát khởi.

– Các khanh! Quả nhân rất bằng lòng và thỏa mãn về việc các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất trong buổi lễ cúng dường Phật và giáo hội vừa rồi.

Hướng đôi mắt về phía đại thần Kỳ Bà, Vua A Xà Thế nói tiếp:

Kỳ Bà! Khanh nghĩ hộ quả nhân xem còn có việc gì đáng làm nữa để quả nhân tận hiến tấc dạ chí thành lên đức Chí Tôn và giáo hội – những người tận tụy trong công việc giáo hóa chúng sanh nói chung, thần dân của quả nhân nói riêng, trở về với ánh sáng chân lý.

Đứng dậy ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi đại thần Kỳ Bà thong thả tiếp:

– Tâu đại vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Đại vương đã dâng lên đức Chí Tôn và giáo hội, theo thiển ý của hạ thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vì ánh sáng trượng trưng cho trí tuệ, cho sự giác ngộ; ở đâu có ánh sáng thì ở đó bóng tối tan mất. Cũng như ánh sáng Phật và giáo hội đến đâu thì ở đó si ám và tội lỗi đều tiêu sạch. Ngu ý của hạ thần chỉ có bấy nhiêu, kính mong bệ hạ thẩm xét.

– Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý! Tiện đây nhờ khanh thay quả nhân sắm sửa cho thật nhiều đèn đuốc để tối hôm nay dâng lên Phật và giáo hội tại tịnh xá Kỳ Hoàn.

Đại thần Kỳ Bà vâng thuận. Buổi tiệc bắt đầu và tiếp diễn trong tình thân mật giữa nhà vua và các vị cận thần.

Chiều hôm ấy, trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành khất gặp rất nhiều xe cộ, lính tráng, tấp nập khuân chở những thùng dầu, đèn và cả những chiếc lồng đèn ngũ sắc rực rỡ.

Hỏi thăm, bà lão hành khất biết đó là lễ vật của nhà vua đem cúng dường Phật và giáo hội.

Hình tướng trang nghiêm của Phật và các thầy Tỳ kheo lại hiện về trong óc bà. Bà vui hẳn lên và rất tán thành việc làm có ý nghĩa của nhà vua. Và xét lại tự thân, thấy mình chưa làm được một công đức nào đối với Phật và giáo hội, bà tự nghĩ phải sắm phẩm vật để cúng dường mới được. Thò tay vào bị, bà lão moi ra vỏn vẹn chỉ có hai tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong lòng khiến bà hoan hỷ đi ngay vào một cái quán gần đấy…

– Thưa cậu! Làm ơn bán cho tôi hai tiền dầu thắp.

– Bà mà mua dầu làm gì? Sao không mua đồ ăn lại mua dầu, nhà cửa đâu mà dầu với đèn!

– Thưa cậu! Tôi thường nghe các bậc hiền đức trong làng bảo: “Ngàn năm muôn thuở mới có một đức Phật ra đời; người nào có nhiều phước duyên lắm mới được gặp”. Hôm nay tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng hiến lên Ngài. Điều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Nhân tiện vua A Xà Thế sửa soạn đèn đuốc để dâng lên Ngài và giáo hội, tuy nghèo khổ, tôi cũng xin nguyện đem hai tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài.

Nghe bà lão hành khuất tỏ tấm lòng chân thiệt đối với Đấng Giác ngộ, người chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: Hai tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng bà ba muỗng nữa là năm, và cho bà mượn luôn vịt đèn này. Mong bà nhận cho.

Sau khi cám ơn người chủ quán, bà lão ra về với bao niềm hoan hỷ vì được người khác biểu đồng tình và giúp mình trong công việc phước thiện.

Trời chưa tối hẳn, những cây đèn xinh xắn, lộng lẫy của nhà vua đã được những đội thị vệ thắp sáng. Tịnh xá Kỳ Hoàn như vui nhộn hẳn lên. Đó đây vang lừng những điệu nhạc dịu dàng, nhịp nhàng với lới ca ngợi của những cận thần thay nhà vua tán thán công đức của Phật và giáo hội. Từng đoàn người lũ lượt đi dự lễ, đông như trẩy hội. Bà lão hành khất cũng tiến mau về phía Tịnh xá và dừng bước trước những hoa đăng rực rỡ, bà vội vàng đến rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay tim. Vừa mồi ánh sáng bà vừa phát nguyện: Cúng dường ánh sáng này lên Đức Thế Tôn và giáo hội, con chỉ cầu mong làm sao con cũng sẽ được trí tuệ sáng suốt như các Đấng Giác ngộ trong mười phương”. Bà lại nghĩ: “Dầu ít như vầy có sáng cũng chỉ đến nữa đêm là cùng”. Nhưng mạnh dạn bà thầm nguyện: “Nếu quả thật sau này tôi sẽ được giác ngộ như lòng tôi mong muốn hôm nay, thì số dầu ít ỏi này cũng làm cho cây đèn này sáng mãi không tắt”.

Sau khi treo cây đèn trên một cành cây, bà lão hành khất đi thẳng vào tịnh xá, chí thành lễ Phật rồi ra về…

Số đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim, nhưng ít cây được sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật cháy…

Duy cây đèn của bà lão hành khất thì ánh sáng nổi bậc hơn muôn vạn cây đèn khác và cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn không hao.

“Này đệ tử! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ”, Đức Phật dạy với Ngài Mục Kiền Liên như thế.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật. Nhưng đến cây đèn của Bà lão hành khất, thì ba lần Tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, Tôn giả cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần thông diệu lực của mình quạt hắt vào đèn nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung quanh đều ngạc nhiên và cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.

Ngay lúc ấy, Đức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:

“Thôi! Đệ tử hãy thôi. Dù cho đệ tử có tận dụng tất cả thần lực của đệ tử cũng không thể nào làm tắt được cây đèn này; vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong tương lai”.

Lời dạy ấy của Đức Phật đã làm cho nhiều đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khất!

Câu chuyện này đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi:

– Kỳ Bà! Như khanh đã biết quả nhân làm rất nhiều công đứccúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy Đức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khất chỉ cúng dường có một cây đèn lại được Ngài thọ ký là nghĩa làm sao?

Đại thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.

– Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm hiểu những nguyên khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ khác về Đức Thế Tôn.

Đôi mắt của đại thần Kỳ Bà bỗng sáng lên và khiêm tốn trả lời câu hỏi của nhà vua:

– Tâu đại vương! Theo những điều mà hạ thần được phỏng văn từ cửa miệng của những người thân cận các thầy Tỳ kheo và cộng thêm sự suy luận của hạ thần thì tuy đại vương cúng dường rất nhiều phẩm vật, song tâm ý không được chí thành cho lắm và có lẽ đại vương không phát đại nguyện; cho nên tuy có công đức mà không làm sao bằng công đức của bà lão hành khất chỉ cúng dường một cây đèn nhưng đó là cả một tấm lòng chí thiết, một dạ chí thành đối với những Đấng Giác ngộ và nhất là lời thệ nguyện cao rộng của bà ấy.

Nghe đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỉ về động cơ của sự cúng dường của mình và bà lão hành khất, sau một hồi suy nghĩ và xét lại bản tâm, vua A Xà Thế liền cởi mở được tất cả những điều thắc mắc…

Thiện Châu

Công đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật, mà căn cứ nơi sự thành tâm”.

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
Thích Minh Chiếu Sưu Tập
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1992-1994

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, văn bản
Nguồn: Sưu tầm theo Facebook

SÂN HẬN TÀN PHÁ DUNG NHAN

Bỏ phẫn nộ, ly mạn …

Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở tại rừng Banyan, liên quan đến Rohinì, thiếu nữ Sát-lợi.

1A. Cô Gái Bị Mụn Ðỏ Trên Mặt

Một thuở nọ, Tôn giả A-nậu-lâu-đà trở về thành Ca-tỳ-la-vệ với năm trăm Tỳ-kheo tùy tùng. Hoàng tộc họ Thích nghe tin đều đến tinh xá đón chào, trừ cô em Rohinì. Tôn giả hỏi:

– Rohinì đâu?

– Thưa Tôn giả, còn ở nhà.

– Sao không đến?

– Thưa Tôn giả, công nương bị nổi mụn nhọt đầy người, nên xấu hổ khi đi ra ngoài.

– Hãy gọi Rohinì đến ngay.

Rohinì được gọi, che mặt dưới một lớp vải và đi đến. Khi nàng tới, Tôn giả hỏi:

– Sao cô không đến trước?

– Thưa Tôn giả con bị nổi mụn trên mặt, nên xấu hổ không dám đi đâu.

– Vậy sao không làm việc công đức?

– Thưa Tôn giả, con có thể làm gì?

– Hãy xây cất một giảng đường.

– Việc ấy tốn kém bao nhiêu?

– Cô có một bộ nữ trang nào không?

– Thưa, con có.

– Trị giá bao nhiêu?

– Khoảng mười ngàn.

– Tốt lắm, đem chi dùng trong việc xây cất.

– Ai sẽ xây cất cho con?

Tôn giả nhìn những hoàng thân đang đứng gần và nói:

– Ðây là bổn phận các vị.

– Nhưng, bạch Tôn giả, còn Ngài sẽ làm gì?

– Tôi ở đây, các vị đem vật liệu xây cất đến cho Rohinì.

– Thưa, vâng.

Và họ mang vật liệu đến, Tôn giả đưa ra đồ án xây cất, bảo Rohinì:

– Hãy cho xây cất một tòa nhà hai tầng, và khi tầng trên đã xong xuôi, cô đứng ở tầng dưới dọn quét sạch sẽ, chuẩn bị thức ăn và rót nước đầy các bình.

– Thưa, vâng.

Rohinì vâng lời, nàng bán toàn bộ nữ trang để lấy tiền xây cất. Khi tầng trên vừa xong, nàng đích thân dọn dẹp để đón chư Tỳ-kheo, ngay khi đó các mụt nhọt lặn hết.

Khi tòa nhà hoàn thành, nàng mời chư Tăng được đức Phật dẫn đầu đến ngồi đầy nhà. Nàng dâng cúng thức ăn chọn lọc cả cứng và mềm. Phật thọ trai xong, hỏi:

– Ai cúng dường hôm nay?

– Thưa, cô Rohinì, em của Ngài, bạch Thế Tôn.

– Hãy gọi đến đây.

Nàng không muốn đi ra, nhưng Phật vẫn cho gọi nữa. Khi Rohinì đến, đảnh lễ Phật và ngồi, Phật hỏi:

– Rohinì, sao cô không đến trước?

– Bạch Thế Tôn, con bị nổi mụn nhọt khắp người nên xấu hổ không dám đi.

– Cô có biết nguyên nhân nào khiến mụn nhọt lan đầy người không?

– Thưa không.

– Chính vì lòng sân hận gây nên.

– Tại sao vậy, con đã làm gì?

– Hãy nghe đây!

Phật kể chuyện:

1B. Bà Hoàng Ganh Tỵ Với Nữ Vũ Công

Thời quá khứ, có một hoàng hậu của vương quốc Ba-la-nại sanh tâm đố kỵ với một vũ nữ của hoàng gia, bà thầm nghĩ: “Ta sẽ làm cho nó đau khổ”. Bà liền tìm thật nhiều mày ghẻ đã khô, nghiền nát thành bột và cho gọi cô vũ nữ đến chỗ bà, bí mật sai người rắc bột ghẻ lên giường, ghế và khăn áo của cô. Rồi làm như đùa cợt, bà tung một ít bột lên mình cô. Lập tức cô gái nổi mụn nhọt khắp mình, nó lở loét trông rất ghê tởm, cô vừa đi vừa cấu khắp mình. Khi về nằm trên giường, bột ghẻ lại dính chặt vào da, cô bị đau đớn đến tột cùng. Bà hoàng ấy là Rohinì ngày nay.

Phật kể xong chuyện quá khứ, Ngài dạy:

– Rohinì, đó là hạt giống xấu mà cô đã gieo. Giận hờn hay ganh ghét, tuy ít bao nhiêu cũng không phải là điều chánh đáng.

Ngài nói kệ:

(221) Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc,
Khổ không theo, vô sân.

Nghe xong, nhiều thính chúng chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả. Rohinì cũng chứng Sơ quả. Ngay khi ấy toàn thân cô trở nên vàng óng.

1C. Thiên Nữ Xinh Ðẹp

Rohinì sau khi mạng chung, tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba ngay giao điểm các ranh giới của bốn thiên tử.

Cô gái đẹp đến nỗi sau khi nhìn thấy cô, cả bốn vị trời đều tranh nhau:

– Nàng thuộc về ranh giới của ta.

– Nàng tái sanh trong phạm vi của ta.

Họ kéo nhau đến chỗ Ðế Thích nhờ phân xử:

– Thiên chủ! Chúng tôi tranh cãi nhau về thiên nữ này, xin quyết định dùm.

Vừa nhìn thấy Rohinì, Ðế Thích cũng ước ao. Ngài hỏi:

– Khi các ông nhìn thấy nàng, cảm tưởng của các ông ra sao?

Vị thứ nhất nói:

– Tim tôi đập vang dội như trống chầu.

Vị thứ hai nói:

– Ý tưởng của tôi dồn dập như thác chảy.

Vị thứ ba nói:

– Vừa thấy nàng mắt tôi muốn nổ tung.

Vị thứ tư nói:

– Tim tôi hớn hở như lá cờ bay.

Ðế Thích kết luận:

Các vị vui thích nhất thời, còn tôi nếu không có nàng tôi sẽ chết.

– Ồ thiên chủ! Ngài cần gì phải chết!

Họ trao nàng cho Ðế Thích và lui về. Từ lúc ấy nàng rất được Ðế Thích sủng ái, nàng muốn dạo chơi nơi nào Ðế Thích liền chiều theo.

Theo: Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện Viên Chiếu
Nguyên tác: “Buddhist Legends”, Eugene Watson Burlingame

Trong hình ảnh có thể có: 5 người
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Nguồn: https://www.facebook.com/duythuc.ht/posts/1744381082249861

MỘT NGƯỜI NẾU MUỐN PHÁT ĐƯỢC
TÀI LỘC THÌ CẦN PHẢI HỘI ĐỦ 2 ĐIỀU KIỆN.

Tôi nhớ có một lần tôi được mời đến trường học tham gia buổi lễ khai mạc nhân dịp khánh thành toà lầu thương nghiệp, trong buổi lễ nhà trường có mời một vị giáo thọ người mỹ rất nổi tiếng đến diễn giảng cho sinh viên nghe. Sau khi tôi nghe rồi thì liền có cảm khái rất sâu sắc. Lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi cũng rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái mà nói với hiệu trưởng:

_ ” Giáo trình của học viện thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy”.

Ông rất kinh ngạc, tôi lại nói tiếp:

_ ” Ông xem vị giáo thọ này rất nổi tiếng, cả đời của ông ta chuyên nghiên cứu quản lý công thương nghiệp, nhưng ông ấy lại không thể phát tài, cả đời chỉ có thể làm thầy giáo và làm cố vấn cho một số công ty mà thôi. Vậy liệu rằng ông ấy có thể dạy cho các học trò của mình phát tài được hay không?”.

Tiếp theo đó tôi lại nói:

_ ” Một con người chân thật phát được tài thì họ cần phải hội đủ 2 điều kiện cơ bản: Thứ nhất là phải hiểu được phương pháp của việc phát tài, thứ hai là phải có được hạt giống của phát tài. Tại vì sao vị giáo thọ này biết được phương pháp và lý luận của việc quản lý công thương nghiệp, nhưng ông lại không thể phát được tài?”.

Tôi đưa ra một ví dụ: Như ở học viện nông nghiệp, cái học viên học được đó là cách trồng trọt, cách phân tích thổ nhưỡng như ánh sáng, không khí, phân bón, chất lượng đất…Nhưng rất tiếc là họ không có được hạt giống, cho nên dù họ rất rành về phương pháp trồng cây, phương pháp phân tích thổ nhưỡng, thì họ cũng không có cách gì thu hoạch được.

Tôi nói với hiệu trưởng là tôi có hạt giống và tôi cũng biết được phương pháp, nếu tôi đến đây dạy học thì khẳng định những học trò này tương lai sẽ phát được tài. Ông liền cười rộ lên mà hỏi tôi rằng:

_ ” Hạt giống là gì vậy?”.

_ ” Trong Kinh, Phật gọi hạt giống này chính bố thí tài“.

Nếu bạn không chịu bố thí thì đây tức là bạn không có gieo nhân của phát tài, vậy thì tương lai làm sao bạn có thể phát tài được chứ? Trong xã hội ngày nay, chúng ta dễ dàng thấy được có biết bao nhiêu người đang bị đói khát, có biết bao nhiêu người đang chịu giá lạnh, tất cả đều có nguyên nhân của nó, đó là vì trong đời quá khứ họ không có tu bố thí tài, nên đời này họ phải chịu đói khát giá lạnh.

Vậy thì có biện pháp gì để cải thiện hay không? Biện pháp thì có, chỉ cần bạn hiểu được cái đạo lý này, ngay từ bây giờ bạn chân thật chịu làm thì liền có thể cải thiện. Trong đời quá khứ ta không chịu bố thí nên đời này trong tài khố mới trống rỗng, vậy thì nếu bây giờ ta chịu tích lũy tài khố, bồi đắp tài khố thì tương lai tài khố sẽ lại đầy lên. Bồi đắp bằng cách nào vậy? Đó là bố thí, hãy hoan hỷ mà đi bố thí. Không có tiền để bố thí? Vậy với 1 đồng, 2 đồng bạn có không? Chúng ta hãy đem 1 đồng, 2 đồng này thành tâm thành ý mà đi bố thí. Tại sao tôi lại nói bạn phải thành tâm thành ý? Vì thành tâm thành ý chính là tâm chân thành, mà tâm chân thành bao trùm khắp hư không pháp giới, không có bờ mé, vậy thì phước báo bạn nhận lại được đó cũng sẽ vô rộng lớn như hư không mà chính mình lại không hề hay biết.

Nếu bạn chịu đi bố thí, nếu bạn chịu kiên trì miệt mài mà làm, làm trong mấy năm, làm trong mấy chục năm thì tài khố của bạn dần dần sẽ đầy lên, phước báo cuối đời liền hiện tiền. Chúng ta thấy có rất nhiều người lúc trẻ thì nghèo nàn lận đận, đến khi về già thì được an nhàn sung sướng giàu có, cái đạo lý này rất sâu, chỉ cần bạn chịu tin tưởng, chịu chân thật đi làm thì đích thật sẽ có được hiệu quả không thể nghĩ bàn.

A Di Đà Phật! _ Pháp sư Tịnh Không_Xem nguồn tại đây

Trích Các Lời Phật và Thánh Hiền Dậy

– Ðức Phật dạy trong kinh Pháp Cú: “Tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”.

– Trong Kinh, Phật dạy rằng: “Muốn chiến thắng chính mình thì phải luôn biết tiếc chế tham dục”. “Dục” tức là để chỉ cho tất cả những nhu cầu ham muốn của một cá nhân nào đó đối với bất kỳ người nào, bất lỳ vật nào

– Ðức Phật dạy: “Kẻ thoát được ác đạo được sinh làm người là khó. Ðược làm người mà thoát được thân nữ làm thân nam là khó. Làm được thân nam mà sáu giác quan đầy đủ là khó. Sáu giác quan đầy đủ mà sinh vào xứ trung tâm là khó. Sinh vào xứ trung tâm mà được gặp thời Phật là khó. Ðã gặp thời Phậtgặp được Ðạo là khó. Khởi được niềm tin mà phát tâm Bồ đề là khó. Phát tâm Bồ đề mà đạt đến chỗ vô tu vô chứng là khó“_Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

– Ðức Phật dạy:  “ Người nào muốn báo ơn nghĩa to lớn cả cha mẹ, không có cách nào hơn là phát tâm Bồ đề cầu giác ngộ, rồi tìm cách hướng dẫn người thân của mình và chúng sanh đồng phát tâm Bồ đề, đó là cách báo ân rốt ráo” _ (Kinh Phương Tiện Phật Báo Ân)

– Kinh Tăng Chi nói có                                         8 loại sức mạnh:

1- Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc.
2- Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ.
3- Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí.
4- Sức mạnh của vua chúa là quyền uy.
5- Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo.
6- Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa.
7- Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát.
8- Sức mạnh của Sa mônnhẫn nhục.
Nhẫn nhục là không ác, nên được mọi người tôn kính”, điều này trong kinh Tăng Chi nói thêm người không nhẫn nhục có năm điều nguy hại:

1- Quần chúng không ái mộ, không ưa thích.
2- Có nhiều người hận thù.
3- Nhiều người tránh né không muốn gặp.
4- Lúc sắp chết tâm bị mê loạn
5- Sau khi chết rơi vào chốn mê khổ.

Nguồn: https://www.facebook.com/dung.nguyenhuu.376695/posts/144855272596982

KINH ĐIỀM LÀNH

Ðức Phật dạy:
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động không sầu,
Không uế nhiễm an ổn
Là điềm lành tối thượng.KINH ĐIỀM LÀNH.

Làm sự việc như vậy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn,
Là điềm lành tối thượng”.KINH ĐIỀM LÀNH.

– Ðức Phật dạy: Người con chí hiếu dù có gặp đại nạn như tai trời , ách nước , địa chấn…. sẽ thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì được hưởng trọn vẹn gia tài không bị nghịch cảnh, chướng duyên, nội nghịch ngoại thù, luật vua phép nước, trộm cướp mất mùa… Nếu nghèo thì đời sống trong sạch thanh nhàn, trời người yêu thương, danh thơm xông khắp, không bị cảnh nợ nần khổ sở, ít bịnh tật, được tăng tuổi thọSau khi chết đuợc sanh Thiên”._ (Kinh Hạnh Phúc)

– Ðức Phật dạy: “ Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai. Là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy cho đến trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa nước tắm rửa, thoa gội, và dầu tại đấy có vãi tiểu tiện, đại tiện như thế, này các Tỳ Kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao ? Vì rằng, này các Tỳ Kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng con khôn lớn, giới thiệu con vào đời” _ (Kinh Tăng Chi I)

– Ðức Phật dạy: “ Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà. Muốn có Đế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Đế Thích sẵn ở trong nhà. Muốn được tất cả thiên thần ở trong nhà, chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong nhà. Cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà” _ (Kinh Tạp Bảo Tạng)

ĐỨC TIN

Khi nói về đức tin, Ðức Phật đã dạy về 10 cơ sở của đức tin chân chánh:
1) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
2) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
3) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.
5) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là lý luận siêu hình.
6) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
7) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
8) Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt
9) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
10) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

– Ðức Phật dạy: “Người bị vợ con, nhà cửa ràng buộc còn hơn là lao ngục”
(Lao ngục có kỳ hạn được phóng thích còn đối với vợ con không có ý tưởng xa rời. Khi đã đam mê sắc đẹp, đâu có ngại gì đến gian nguy ! Dù tai họa nơi miệng cọp vẫn cam tâm ! Tự đắm mình vào chốn bùn lầy nên gọi là phàm phu. Vượt thoát cảnh ấy sẽ là bậc Alahán)_ Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

– Ðức Phật dạy: Từ giã Cha Mẹ đi xuất gia học Ðạo, thấu rõ nguồn tâm, hiểu vô vi pháp, được gọi là bậc Sa môn. Thường giữ gìn 250 giới, sống đời thanh tịnh, thực hành 4 chân đạo, thành tựu quả vị A La Hán.
(Vị chứng quả A La Hánthể phi hành, biến hóa, kéo dài mạng sống, ở đời động cả đất trời. Thứ đến là quả Anahàm. Vị chứng Anahàm, khi tuổi thọ hết, thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19 thì chứng quả A La Hán. Thứ đến là quả Tư Ðà Hàm, người chứng quả Tư Ðà Hàm, một lần sinh lên cõi Trời, một lần sinh xuống cõi Người thì chứng quả A La Hán. Kế đến là quả Tu Ðà Hoàn, người chứng quả Tu Ðà Hoàn phải 7 lần sinh, 7 lần tử mới chứng quả A La Hán. Người chứng quả A La Hán là người đã đoạn tận ái dục, như chân tay bị chặt không thể sử dụng trở lại được); Nguồn: Xem tại đây

Sáu cửa (6 Nhóm Việc Tán Tài/ Tán Gia Bại Sản) suy vong tiền tài danh vọng địa vị

6 CỬA SUY VONG
(Apāyamukha)

=>>> Ngõ đi dẫn đến TAI HẠI và TIÊU HAO tài sản:

1. Say sưa rượu chè (Surāmerayamajjapamā datthānānuyogo).

Say sưa có 6 điều nguy là:

_ Tài sản tiêu hao,
_ Gây sự tranh cãi,
_ Phát sanh bệnh tật,
_ Đánh mất danh dự,
_ Lõa lồ trâng tráo,
_ Trí tuệ suy giảm.

2. Du hành đường phố phi thời (Vikālavisikhācariyānuyogo).

Đi chơi đêm có 6 điều nguy là:

_ Không giữ được mình,
_ Không giữ được vợ con,
_ Không giữ được tài sản,
_ Dễ bị tình nghi,
_ Thành nạn nhân tin đồn,
_ Chuốc lấy ưu phiền.

3. La cà chốn du hí
(Samajjhābhicaranam).

Đến hí trường có 5 đều nguy là:

_ Công việc đình trệ,
_ Thối thất siêng năng,
_ Mất nhiều thời gian,
_ Hao tốn tiền của,
_ Bận rộn tâm tìm chỗ vũ nhạc ca hát.

4. Đam mê cờ bạc. (Jūtappamādatthānānuyogo).

Cờ bạc có 6 điều nguy là:

_ Thắng sinh thù oán,
_ Thua bị khổ đau,
_ Tài sản bị tổn thất,
_ Lời nói không hiệu lực,
_ Bạn bè khinh miệt ,
_ Người đời không dám gả cưới.

5. Giao du ác hữu
(Pāpamittānuyogo).

Chơi bạn xấu có 6 điều nguy là:

_ Ảnh hưởng thói cờ bạc,
_ Ảnh hưởng thói điếm đàng,
_ Ảnh hưởng thói rượu chè,
_ Ảnh hưởng thói gian xảo,
_ Ảnh hưởng thói lường gạt,
_ Ảnh hưởng thói côn đồ.

6. Quen biếng nhác
(Ālassānuyogo).

Tính lười biếng làm cho không thu hoạch tài sản hoặc tiêu hao tài sản vì thối thác làm việc với 6 lý do là:

_ Nghĩ rằng lạnh quá,
_ Nghĩ rằng nóng quá,
_ Nghĩ rằng sớm quá,
_ Nghĩ rằng trễ quá,
_ Nghĩ rằng đói quá,
_ Nghĩ rằng No quá.

(Trường Bộ Kinh. III.182.184.)

Namo Buddhaya.

Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời
Nguồn: https://www.facebook.com/PhatPhapBuddhadhammanew/posts/2040819652804126:0