All posts by Quản Trị Biên Tập

" Phụng sự mà biết mình đang phụng sự thì chưa phải phụng sự " Ghi trong Menu tổng: Người dùng, Menu con: Hồ sơ của bạn

QU01 – BC – Môn 110: Các Nguyên Lý Cơ Bản (Tháng 1 & 2/ 2020)

BÁO CÁO MÔN HỌC 100: CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
(Gồm 2 học phần – 2 báo cáo cho 2 tháng đầu tiên 2020 từ Đông Chí 12/2019)

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 01
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 02
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 03
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 04
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

 

QU01- Phúc Trình Tham Thiền Trăng Tròn

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH KHÓA QU 01
THAM THIỀN – NGHIÊN CỨU – PHỤNG SỰ HÀNG THÁNG

A- Mẫu phúc trình MSS cho LHY: Tham thiền, Nghiên Cứu và Phụng sự – Nửa Sáng Của Năm

I- Tham Thiền

  1. Liệt kê tất cả các bài tham thiền mà bạn đã thực hiện trong giai đoạn này cho đến và bao gồm cả Tham Thiền Trăng Tròn. (Vui lòng ghi các tư tưởng hạt giống được sử dụng. Nếu bài thiền không có tư tưởng hạt giống, lưu ý các chủ đề chung của bài thiền.)
  2. Dưới mỗi bài thiền được liệt kê, mô tả những kinh nghiệm nội tại của bạn và bất kỳ sự hiểu biết hoặc tri kiến sâu sắc nào đến với bạn về chủ đề chung của bài thiền và ảnh hưởng của nó đối với tâm thức của bạn. (Đây không phải là một câu trả lời sách vở mà bạn sẽ sử dụng để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của các môn học mà một số các bài tam thiền được liên kết.)
  3. Bạn đánh giá chất lượng tâm thức của bạn như thế nào trong quá trình tham thiền? Bạn nghĩ rằng bằng cách nào tâm thức của bạn có thể được tinh luyện, làm sâu sắc và mở rộng ra?
  4. Ghi bất kỳ câu hỏi hoặc mối quan tâm về công việc tham thiền của bạn hoặc bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống nội tâm của bạn.

(Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nhạy cảm nào mà bạn không muốn chia sẻ với nhóm sinh viên, vui lòng gửi email cho người cố vấn của bạn trực tiếp. Hoặc gửi email tới Michael và Vicktorya, infinitize8@gmail.com; vsk@makara.us)

II- Nghiên cứu

  1. Đối với mỗi môn học, hãy chọn và trả lời một câu hỏi từ mỗi học phần hai tuần lễ (hoặc hàng tháng). (Vui lòng liệt kê các câu hỏi mà bạn đang trả lời.)

Cố gắng trả lời ‘ngắn gọn nhưng đầy đủ’ và bao gồm TẤT CẢ các môn học trong phúc trình MSS của bạn.

  1. Nếu bạn đã học được bất cứ điều gì quan trọng trong bất kỳ môn học nào, vui lòng mô tả việc học đó sau khi bạn đã trả lời các câu hỏi cho môn học.
  2. Ngoài ra, sau khi bạn trả lời các câu hỏi cho mỗi môn học, vui lòng liệt kê bất kỳ câu hỏi nào của bạn có thể có liên quan đến chủ đề trong môn học cụ thể đó.

III- Phụng sự (Đây KHÔNG phải là trả lời cho môn học 170, 270, v.v Phụng sự & Các Giải pháp của bạn, mà là sự hiểu biết cá nhân của bạn và việc áp dụng trong phụng sự)

  1. (Khi bạn đã đề cập đến phần này trong môn học Phụng sự & Giải pháp 170), hãy mô tả mọi sự hiểu biết sâu sắc về phụng sự của bạn, Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian hoặc Các Nhóm Hạt giống nói chung. Việc bạn học về các Nhóm Hạt giống trong môn học Phụng sự và các Giải Pháp pháp làm tăng nhận thức của bạn về các phương pháp phụng sự như thế nào? Chia sẻ bất kỳ sự hiểu biết mới về phụng sựthể đã đến với bạn.
  2. Các khu vực Nhóm Hạt giống nào thu hút bạn, hoặc có thể liên quan đến hoạt động bạn đang làm? Khi bạn tìm hiểu thêm về các lĩnh vực ảnh hưởng và biểu hiện của nhóm hạt giống, hãy chú ý đến các nhiệm vụ nhóm hiện tại đang nghiên cứu (xem 170, 270, v.v.) và thảo luận về mối quan hệ bạn cảm thấy với công việc của Nhóm này, hoặc nếu bạn thấy các trường hợp công việc này có thể nhìn thấy trên thế giới? Các ví dụ đáng chú ý về công việc này (hoặc bất kỳ) Công việc của Nhóm Hạt giống nào đã thu hút sự chú ý của bạn?

 

PHẦN 01
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN MA KẾT

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 02
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN BẢO BÌNH

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 03
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SONG NGƯ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 04
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN BẠCH DƯƠNG

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 05
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN KIM NGƯU

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 06
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SONG TỬ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

 

B – Mẫu Phúc Trình MSS cho DHY: Tham thiền, Nghiên Cứu và Phụng sự Nửa Tối Của Năm

I- Tham Thiền

  1. Liệt kê tất cả các bài tham thiền (và các tư tưởng hạt giống) mà bạn đã thực hiện trong giai đoạn này cho đến và bao gồm cả Tham Thiền Trăng Tròn. (Xin vui lòng bao gồm các tư tưởng hạt giống được sử dụng. Nếu bài thiền không có tư tưởng hạt giống, lưu ý các chủ đề chung của bài thiền.)
  2. Dưới mỗi bài thiền, mô tả những kinh nghiệm nội tại của bạn và bất kỳ sự hiểu biết hoặc tri kiến sâu sắc nào đến với bạn.
  3. Hãy xem xét sự tiến bộ của bạn theo thời gian, và cách bạn có thể cải thiện hiệu quả của bạn trong việc tham thiền, cả cụ thể lẫn nói chung.
  4. Bao gồm bất kỳ câu hỏi hoặc mối quan tâm về công việc tham thiền của bạn hoặc bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống nội tâm của bạn.

(Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nhạy cảm nào mà bạn không muốn chia sẻ với nhóm sinh viên, vui lòng gửi email cho người cố vấn của bạn trực tiếp. Hoặc gửi email tới Michael và Vicktorya, infinitize8@gmail.com; vsk@makara.us)

II- Phúc Trình Nghiên cứu

  1. Trong Nửa Tối Của Năm (DHY), sinh viên hệ thống hóa và đồng hóa những gì đã học được trong Nửa Sáng Của Năm, hoàn thiện sự hiểu biết về kiến ​​thức đã đạt được.
  2. Chủ đề của bài tiểu luận mà bạn định viết cho mỗi môn học đã học là gì — bao gồm ba khóa học ngắn và ba khóa học đầy đủ.
  3. Tại sao bạn chọn những chủ đề này, và bạn mong muốn tìm hiểu hoặc chứng minh điều gì bằng cách tập trung vào chúng như một chủ đề cho các bài tiểu luận môn học của bạn.
  4. Bạn có bất kỳ câu hỏi nào có liên quan đến các chủ đề hoặc việc thực hiện các bài viết được đề xuất của bạn; có bất kỳ điểm cần làm rõ nào mà bạn cho rằng sẽ giúp ích bạn trong việc viết các bài tiểu luận của bạn?
  5. Nếu bạn có các dự án sáng tạo khác với việc viết các bài tiểu luận của môn học, hãy thảo luận ý kiến ​​của bạn.
  6. Khi bạn suy ngẫm về các tiểu luận bạn dự định viết, có bất kỳ thông tin chi tiết mới nào mà bạn định sử dụng không? Vui lòng mô tả bất kỳ thông tin chi tiết này sau khi bạn thảo luận về từng bài tiểu luận của môn học.
  7. Lịch trình dự kiến ​​để nộp các bài tiểu luận môn học của bạn là gì? Bạn có đúng lịch không?
  8. Bạn có muốn thảo luận thêm về công việc sáng tạo của mình trong DHY không?

III- Phụng sự (Đây KHÔNG phải là trả lời cho môn  học 170 hoặc 270, Phụng sự & Các Giải pháp của bạn, mà là sự hiểu biết cá nhân của bạn và việc áp dụng trong phụng sự)

  1. Mô tả bất kỳ sự sâu sắc nào trong hiểu biết của bạn về phụng sự, Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian hoặc Nhóm Hạt giống nói chung. Việc bạn học về các Nhóm Hạt giống trong môn học Phụng sự và Các Giải Pháp làm tăng nhận thức của bạn về các phương pháp phụng sự như thế nào?
  2. Các khu vực Nhóm Hạt giống nào thu hút bạn, hoặc có thể liên quan đến hoạt động bạn đang làm? Khi bạn tìm hiểu thêm về các lĩnh vực ảnh hưởng và biểu hiện của nhóm hạt giống, hãy chú ý đến các nhiệm vụ nhóm hiện tại đang nghiên cứu (xem 170, 270, v.v.) và thảo luận về mối quan hệ bạn cảm thấy với công việc của Nhóm này, hoặc nếu bạn thấy các trường hợp công việc này có thể nhìn thấy trên thế giới? Các ví dụ đáng chú ý về công việc này (hoặc bất kỳ) Công việc của Nhóm Hạt giống nào đã thu hút sự chú ý của bạn?

 

PHẦN 07
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN CỰ GIẢI

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 08
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SƯ TỬ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 09
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN XỬ NỮ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 10
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN THIÊN BÌNH

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 11
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN HỔ CÁP

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 12
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN NHÂN

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN CUỐI – CHUYỂN KHÓA HỌC
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN MA KẾT

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

Đối Trị Năm Triền Cái – Thiền Phật Giáo

ĐỐI TRỊ NĂM TRIỀN CÁI TRONG THIỀN ĐỊNH
Thích Giác Chinh

Đầu tiên, thiền sinh bước vào giai đoạn hành thiền là tạm thời đè nén chúng để đắc thiền-na và phát Tuệ minh sát, là 2 yếu tố then chốt cho việc đoạn trừ Năm triền cái, bước tiếp theo thiền sinh dần dần chế ngự chúng một cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Đạo.

Triền Cái tức là ngăn che. Năm chướng ngại ngăn che làm cho hành giả thực hành thiền không thấy được tâm an tịnhxả ly và giải thoát. Theo kinh nghiệm của Đức Thế Tôn thông qua bài KinhTứ Niệm Xứtoàn bộ pháp hành đưa đến Giác ngộ có thể được diễn tả như một nỗ lực để vượt qua năm chướng ngại này. Năm chướng ngại đó là:

1.  Tham dục (Kamachanda),

2.  Sân hận (Vyapada),

3.  Hôn trầm (Thiramiddha),

4.  Trạo cử (Udhaccakukucca),

5.  Nghi ngờ (Vicikiccha).

Khi tâm không được tu tập nghiêm túc và không an tịnh thì thường bị Năm triền cái này chi phối, và không thể tiến bộ trong công phu thiền quán. Hành thiền là tu tập đoạn trừ Năm triền cái và thay thế bằng Năm thiền chi (Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm).

+ Nhờ Tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng) đối trị được Hôn trầm – Thụy miên;

+ Nhờ Tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng) đối trị được Nghi;

+ Nhờ Hỷ (hân hoanvui mừngđối trị được Sân;

+ Nhờ Lạc (an lạcđối trị được Trạo cử

+ Nhờ Nhất tâm (an địnhđối trị được Tham dục.

Vì vậy, trọng việc thực hành Thiền định, đoạn trừ Năm triền cái tức là đã chặn đứng một cách vĩnh viễn chướng ngại chính cản trở sự thành tựu Thiền-na và phát triển Tuệ giác. Lộ trình tu tập giải thoát là sự trải qua của những quá trình thấy rõ các khía cạnh vô thường của Năm chướng ngại, chúng nguy hiểm, khổ đau và không có tự ngã.

2.  Đối tượng của tu thiền là loại bỏ năm triền cái

2.1.Tham dục: 

Đối tượng thứ nhất của hành thiền là Tham dục, là sự tham muốn các tham ưu ở đời. Tu tập đoạn trừ Tham dục là đi ra khỏi các tham ưu ở đời. Dục(kāmanày gồm có năm loại:

(i)- Sắc dục, tức là tham đắm về nét đẹp liên hệ đến thân vật lý hoặc cảnh trần;
(ii)- Thanh dục: Tham đắm âm thanh như du dương trầm bổng hoặc tiếng vừa ý liên hệ đến nhĩ căn;
(iii)- Hương dục: Tham đắm về mùi liên hệ đến tỷ căn;
(iv)- Vị dục: Tham đắm về vị ngọt liên hệ đến thiệt căn;
(v)- Xúc dục: Tham đắm về xúc chạm liên hệ đến thân căn.

Theo Kinh Ví Dụ Con Rắn (số 22) trongTrung Bộ KinhĐức Thế Tôn đã khẳng định các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn” và đưa ra 10 ảnh dụ về sự nguy hiểm của dục:

“... (i) ví như khúc xương; (ii) ví như một miếng thịt; (iii) ví như bó đuốc cỏ khô; (iv) ví như hố than hừng; (v) ví như cơn mộng (vi) ví như vật dụng cho mượn; (vii) ví như trái cây (viii) ví như lò thịt; (ix) ví như gậy nhọn; (x) ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn“.

Những ức chếlòng ham muốn, sự sinh ra những cảm giác mong ước tìm kiếm khoái lạc trong những hoạt động sắc dục hoặc và bao gồm lòng ham muốn thay thế các cảm giác khó chịu, đau đớn bằng các cảm giác dễ chịu; sự nảy sinh theo sau dục khởi này là lòng ham muốn được có cảm giác thoải mái. Trong một quá trình nảy sinh và biến thiên của các hoạt động tâm tiêu cực như thế, những cảm giáccảm xúc dấy lên trong tâm, hành giả nhiệt tâm, tinh cầntỉnh giác trong hơi thởthở rathở vào biết chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tínhnhận biết chúng là thế gian hay xuất thếbiết tính vô thườngcủa chúng, hành giả vượt ra các tham ưu ở đời.

Vì sao thiền sinh không nếm được hỷ, lạc của thiền vị? Vì các dục khởi lên bên trong các hoạt động của tâm và quấy nhiễu làm cho tâm và thân xao động, cuốn theo các cảm thọVì vậy trong khi hành thiền là hành giả đang đối diện với tâm của mình. Quán Tâm là chú ý đến các tâm pháp đang hiện hànhbiết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si (các hoạt động của Tâm sở), để chặn đứng các tâm hành; ở đây là những tâm hành Tham dục.

Khi thực tập, định sẽ có mặt do quán hơi thở, khi được tu tập, được làm cho sung mãn tức là an tịnh. Sự tỉnh giác trong hơi thởthở rathở vào, cũng như tỉnh giác trong bốn oai nghi của thân (đi, đứng, nằm, ngồi)Tỉnh giác trong mọi hoạt động của thân thểquán sát 32 phần thân thểquán sát yếu tố tạo thành thân cũng như quán tử thiThiền sinh trú chánh niệmtỉnh giácThiền sinh khi đi tới, khi đi lui, đều tỉnh giác; khi nhìn tới, khi nhìn lui, đều tỉnh giác; khi co cánh tay, duỗi cánh tay, đều tỉnh giác; khi đắp y, khi mang y bát, đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai nếm, đều tỉnh giác; khi đi tiểu tiện, đại tiện, đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, đều tỉnh giácThiền sinh vượt qua lòng tham dục bằng cách buông xả mọi quan tâm về thân thể và hoạt động của năm giác quanbiết rõ sự nguy hiểm của dục. Đến đây thiền sinh nên khéo léo phát khởi ý niệm về hạnh phúcan lạc của Thiền định và sự cần thiết của một căn bản Thiền định để đi sâu vào tuệ giác; chính trạng thái tâm hành tích cực này là niềm phấn khởi hân hoan đi vào Thiền định, dễ dàng buông thả dục lạc rơi lại phía sau.

Như vậy, trong một quá trình kiểm soát thân-tâm có mặt của thiền lực và chánh niệm thiền sinh nếm được hỷ-lạc nhờ có tỉnh giác. Đến đây, thiền sinh vui hưởng hạnh phúc hỷ lạc của Thiền-na (jhana)nhờ biết xả ly các quan tâm về thân và năm giác quan của nó. Sự nảy sinh tuệ giác theo sau pháp vị Thiền-na. Vì vậy, trong bài Kinh Tứ Niệm XứĐức Thế Tôn nói tu tập đoạn trừ Tham dục là đi ra khỏi các tham ưu ở đời, nghĩa là “ly dục, ly ác pháp bất thiện pháp”.

2.2.Sân hận

Chức năng của việc đem tâm an trú vào các tầng thiền-na (jhana), một chi phần Chánh Định của Bát Chánh Đạo là để đoạn tận tất cả năm Triền cái để giúp triển khai tuệ giác của thiền lực trong quá trình thực hành. Nhưng vì định lực và thiền lực không mạnh mẽ và đầy đủ nên tâm hướng theo các hoạt động hướng ngoại, gây nên sự tham ưu và thù oán hoặc nảy sinh ý niệm tự ngã, làm cho sân phiền não xâm chiếm tâm.

Đến đây, thiền sinh đối mặt với Sân hận triền cái, là bức màn của sân nhuế ngăn che thiền hỷ dẫn đến sự phát khởi sự tham ưu ở đời. Chỉ cho trạng thái mong muốn và khao khát báo thù, gây khổ hoặc thù ghét một người hoặc một hoàn cảnh nào đó, ở mức vi tế của nó là đề cao bản thân, lòng tự ngã, tự ti hoặc mặc cảm của mình. Thiền sinh liền bị vướng vào vòng xoáy của nóng giận, bứt rứt và khó chịu, các cảm thọ này tiêu diệt sự an tịnh và mát mẻ của thân tâm. Một biểu hiện tâm sân hận thứ hai, song song hoặc tìm ẩn với trạng thái trên trong khi hành thiền chính là tâm hành chối bỏ, sự chán ghét vào chính đối tượng thiền quán; vì sân nhuế chế ngự tâm tạo ra một năng lực mãnh liệt, mê hoặc và hấp dẫn tâm hành giả lang thang qua các nơi khác hoặc bỏ rơi sự chú tâm của ta vào đề mục chính.

Chính lúc hành thiền chưa đủ thiền lực hoặc trong các hoạt động đi, đứng, nằm, ngồi hàng ngày chưa dồi dào chánh niệm làm phát sinh một loạt tâm lý vội vã, nôn nóng, nóng giận và ghét bỏ, v.v… Hãy cẩn thận, khéo léo định tâm vào hơi thởhơi thở vào, hơi thở ra một cách điều hòa, an tịnhtừ từ sân nhuế được nhìn thấy rõ ràng hơn và hành giả nhận thấy được sự nguy hiểm của sân phiền nãohành giải phát khởi tâm từ và chánh niệm quán chiếu tham ưu của các tướng trạng tâm lý chúng vô ngãvô thườngTiếp theothiền sinh chú tâm vào hơi thở có tầm có tứ thì thiền hỷ sẽ phát sinh. Như thế, khi có sân hận trỗi dậy, sự quán chiếu bi mẫn sẽ giúp ta thấy được lỗi lầm của chính mình, khuyến khích ta tự tha thứ cho chính mình, giúp ta học được bài học đó rồi buông xả chúng. Sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy rõ sự nguy hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang trói buộc tâm thức chúng ta. Chính lúc thiền sinh luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý niệm của hiện tại lại chính là thiền lực để nuôi dưỡng niềm vui hỷ thiền nhằm đối trị sân nhuế phiền não.

Nghệ thuật của sự chế ngự cơn giận để có an bìnhtự do và hạnh phúc đích thực chính là sự nhận diệnchuyển hóabuông xả và phát khởi tình thương. Sự nảy sinh tuệ giác theo sau pháp vị bi mẫn trong thiền vị, đi ra khỏi các tham ưu ở đời.

2.3. Hôn trầm

Hành Thiền, nếu bạn không giữ được chánh niệmtỉnh giác thì bạn sẽ rơi vào một trong ba trạng thái tâm lýtrạo cửhôn trầm và vô ký. Trạng thái tâm lý mệt mỏiuể oải, lười biếng, buồn ngủ khi ngồi Thiền gọi là trạng thái hôn trầm thụy miên, trong một vài trường hợp thiền sinh ngủ hẳn đi một lát. Ở giai đoạn này, khi Thiền sinh theo dõi một đối tượng trong khoảng thời gian khá lâu, sự theo dõi có thể lơi dần, yếu dần, rồi mất dần luôn sự kiểm soát. Khi ấy, tâm lý của hành giả chìm vào hôn trầmTrạng thái tâm lý này sẽ ngăn trở bước tiến thực hành Thiền định, vì tuệ tri và tuệ giác không có mặt, lâu dần bào mòn sự an tịnh của thân tâmVượt qua đối tượng này, thiền sinh cần nỗ lực đi ra khỏi hôn trầm.

Cần một chút tỉnh giác và tinh tấn để nhận diện ra được cơn hôn trầm đang diễn ra. Trong khi hành thiền, nó làm cho ta chỉ có những giác niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó đưa đến sự ngủ gục trong lúc thiền mà ta lại không biết. Khi biết mình đang bị hôn trầmthiền sinh liền thức tỉnh tìm cách đi ra. Đừng lo lắng hoặc chán nản, hãy theo dõi và quán niệm hơi thở, thiền lực sẽ dần có mặt nhờ sự theo dõi chú tâm và chánh niệm; để sự chú ý ngay trên đỉnh đầu một lát cho đủ tỉnh táo, rồi tự đánh thức mình ngay, khởi niệm nỗ lực ngay, trở về theo dõi chuyên sâu vào hơi thở vào ra một cách đều đặn.

Trong quá trình hành thiền và phát triển tuệ giác, các thiền sinh không chỉ cố mà hành thiền là sẽ hiệu quảkinh nghiệm cho thấy cần một số tham khảo từ các bậc thầy Thiền sư hoặc các bài kinh liên quan đến thiền định mà Đức Phật đã giảng dạy, đó là con đường thiền định mà Thế Tôn đã đi qua. Ở đây, Một số phương pháp đối trị hôn trầm mà Thế Tôn đã dạy cho Tôn giả Mục-kiền-liên trong Tăng Chi 3A, tr 85-86, bản dịch của HT. Minh Châu, 1981, có thể tham khảo và vận dụng như sau:

i.  Khi hành thiền đang ở tưởng nào mà thụy miên kéo đến thì rời khỏi tưởng ấy, đừng tác ý đến tưởng ấythụy miên sẽ tan đi.

ii. Nếu rời khỏi tưởng ấy mà thụy miên vẫn còn, thì tư duy các giáo lý đã nghe, đã học thuộcThụy miên sẽ bị loại trừ.

iii. Nếu tư duy như thế mà thụy miên vẫn không tan, thì đọc tụng Pháp như đã nghe, đã học thuộc. Thụy miên sẽ bị loại trừ.

iv. Nếu thực hiện như vậy mà thụy miên vẫn chưa tiêu, thì sẽ kéo mạnh hai lỗ tai và lấy hai tay xoa bóp tay, chân cho tỉnh.

v. Nếu làm như thế mà thụy miên vẫn tồn tạithì sẽ rời khỏi chỗ ngồi Thiền, ra ngoài lấy nước mát rửa mặt, nhìn về phía phương trời xa xăm sáng sủa, hay nhìn lên các vì sao (nếu về đêm), thụy miên sẽ tan mất.

vi. Nhưng nếu các biện pháp trên không có kết quả, thì hãy tác ý tưởng đến ánh sáng, tưởng ban ngày. Như thế, với tâm mở rộng, không hạn chếtu tập tâm chói sáng, sẽ là tiêu tan hôn trầm.

vii. Nếu tưởng ánh sáng… không có kết quả, thì hãy đi kinh hành, tác tưởng trước mặt và sau lưng, để tâm hướng nội, thụy miên sẽ bị loại trừ.

viii. Nếu các biện pháp đối trị khi ngồi, khi đứng, khi đi không có hiệu quảthì hãy nằm theo dáng nằm của sư tử, nghiêng về hông phải, đôi chân gác lên nhau, giữ chánh niệm các tưởng thức dậy thật maukhông khởi niệm ham thích nằm ngủan trú như vậy, thụy miên sẽ tiêu tán.

Một đoạn tóm lược ngắn kinh nghiệm đối trị hôn trầm mà Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn giả Mục-kiền-liên hầu hết được các trường thiền ứng dụng, với mỗi hành giả độc lập cũng có thể ứng dụng phương pháp này.

Đó là một quá trình nhận diệnchuyển hóa và thoát ra khỏi cơn hôn trầm của một thiền sinh thiện xảo. Khi đang theo dõi một đối tượng, nhưng đối tượng không được liên tục bỗng lững quên đi một chốc, đánh mất sự kiểm soát của thân và tâm, không nhận diện được đề mục là lúc hành giả bị rơi vào hôn trầm. Chỉ cần tỉnh giácđịnh tâm vào hơi thởHơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thởhơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy đưa thiền sinh đến chánh niệm vững mạnh và có tuệ giác tri, liền đi ra khỏi hôn trầm ấy ngay.

Mặt khác, trong khi hành thiền sự vi tế của các trạng thái tâm cũng có thể đưa hành giả đến trạng thái vô ký. Nó là một trạng thái tâm lý không phải là tỉnh giác, không phải trạo cử, cũng không phải là hôn trầm mà chỉ hơi ngã về hôn trầm gọi là trạng thái vô ký. Không khéo tỉnh thức và chú ý đến niệm lực thì trạng thái tâm lý khờ khờ mà tâm không có khả năng ghi nhận vì có thể ngỡ là đang tỉnh táothiền sinh cần quán niệm tỉnh giác đánh thức mình đi ra khỏi trạng thái ấy ngay, đừng lầm lẫn nó với trạng thái tâm lý lắng đứng, an tỉnh. Vì Vô ký là biểu hiện của si tâm, tướng biểu hiện bên ngoài của hành giả là tướng trơ lặng hay thân tướng lắc lưChỉ cần tỉnh giác theo dõi hơi thở vào ra thì tâm lý vô ký lặn mất ngay.

Theo kinh nghiệm của Đức Thế Tôn dựa trên bài Kinh Tứ Niệm Xứhành giả cần nhận thức rằng: Với ai khi trú, quán thân trên thân mà hoặc thân sở duyên khởi lên, hoặc thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại, đó là vị ấy không biết nơi trú, không biết quán thân trên thân, đưa đến kết quả tệ hại; do vậy, vị ấy cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tínhân hoan (trong Tứ Niệm Xứ Kinh ghi nhận đó là: Thắng hỷ: pàmujjam) sinh ra. Người có lòng hân hoanhỷ sinh ra. Người có lòng hỷ, thân được khinh an. Người có lòng khinh anlạc thụ sinh. Người có lòng lạc thụ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: “Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút lui (patisamharàmi) khỏi đối tượng tịnh tín”. Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: “Không tầm, không tứ, nội tâm chính niệm, ta được an lạc”.

Nghệ thuật nhận diện sự an tịnh của cái thấy và cái biết trong khi hành thiền để làm cho cái tâm trở nên tinh nhuệ chính là sự nhận diện được tác nhân và biết được đối tượng của chúng một cách rõ ràngtu tập chánh niệm tỉnh giác nhiếp phục tham ưu ở đời.

2.4. Trạo cử (Giao động)

Nếu trong khi hành thiền, thiền sinh không thể dừng tâm vào một đối tượng đã chọn như ý muốn, tâm cứ chạy dài từ đối tượng này qua đối tượng khác, thì đấy là trạng thái tâm lý dao động, hay gọi là trạo cử. Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi (ở đây là thiền chi Lạc, vì nhờ Lạc đối trị được Trạo cử), là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che trong giai đoạn này đó là trạo cửTrạo cử là một tâm lý, gây trở ngại, ngăn cách với Thiền định. Nó là một tâm hành tiêu tốn nhiều năng lượng, vì nó diễn ra bên trong các hoạt động của tâm lẫn sự khuấy động của thân, thiền sinh cần nỗ lực vượt qua trạng thái tâm lý này.

Khi vừa nhận ra mình đang trạo cử, liền dừng suy tư, để sự chú ý theo dõi hơi thở vào ra một cách chuyên chú cho đến khi cảm thấy vừa ổn và nhận biết hơi thở một cách rõ ràng, tâm ghi nhận các hoạt động của hiện tại có mặt thiền sinh nhận diện sự có mặt của trạo cử; đến đây, thiền sinh có thể tiếp tục theo dõi hơi thởThiền chỉ hay trở ngại tư duy nếu thấy cần thiết. Lúc này, niệm lực của chánh niệm đã trở về lại, làm cho hành giả ý thứcghi nhận được sự lay động của thân tâm. Với những ai bị dao động nhiều bởi tư duy lúng túng của mình, thì chỉ nên theo dõi hơi thở hay hành Thiền chỉ trong một thời gian khá lâu trước khi có thể đi vào Thiền quán, hay chỉ quán song tu.

Đến đây, niệm lực và tâm ghi nhận vẫn chưa mạnh mẽ, dẫn đến sự xuất hiện của tâm hành vi tế trạo cử bên trong dòng tâm thức. Khi kiểm soát được sự trạo cử thô bên ngoài hành giả trở về đề mục thiền định, những lo nghĩưu tư của khởi lên tìm cách đi ra khỏi các kiết sử (thân, kiến, nghi, giới cấm thủ, dục, sân, hữu áivô hữu ái, mạn, trạo cửvô minh) là một hình thức trạo cử vi tế bên trong tâm hànhTheo như Kinh Đại Niệm Xứ thì trạng thái tâm lý trạo cử nào dù thô hay tế cũng chướng đạo, cũng ngăn che giải thoát cả, hành giả cần nhiếp tâm chánh niệmtỉnh giác để đi ra. Theo dõi một cách chuyên chú vào hơi thở vào ra, đình chỉ các ý niệm lao xao và chánh niệm tỉnh giác là biện pháp đối trị trạo cử một cách hữu hiệu.

Một lối sống thiểu dụctri túc và biết ơn trong đời sống hàng ngày giúp ích nhiều cho việc hành thiền và cắt đứt trạo hối. Sự trạo cử do lương tâm cắn rứt là vì hành nghiệp của lối sống không giới đức, các thiền sinh tập sống tử tế, khôn ngoan và dịu dàng sẽ làm cho thực lực của hỷlạc nhanh chóng có mặt trong lúc hành thiền. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.

Nuôi dưỡng và biết trân quý giây phút hiện tại chính là nghệ thuật của sự biết ơn. Lòng biết đủ và biết quý trong lúc này giúp cho thiền sinh nhận diện được thiền chi Lạc thiền, là thiền lực trong giai đoạn tiếp theo cho mỗi hành giả đoạn trừ sự lang thang trôi nổi.

2.5. Nghi ngờ

Vì sao thiền sinh hành thiền lúc thì biết rằng thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát; nhưng có lúc cũng nghĩ rằng không biết tu tập sẽ được gì, đó chính là sự xuất hiện của Nghi triền cái. Sự nghi ngờ ngăn che và vây phủ tuệ tri của thiền giả. Vì không nhận ra được mục tiêu và con đường của hành thiền nên hành giả không thể nào có sự tập trung tư tưởng. Một câu hỏi được đặt ra: Lý do tại sao nghi ngờ triền cái có mặt? Vì trong quá trình học Pháp, nghe Pháp và hành Pháp thiếu vắng sự tư duy chân chánh và Chánh kiến về Pháp; chỉ khi nào có Chánh kiến và nếm được Pháp vị thắng hỷ, tức là tịnh tínhân hoan (đã được Đức Phật đề cập trong Tứ Niệm Xứ Kinh), lưới nghi sẽ được tháo bỏ.

Khi hành giả nhận diện được nghi ngờ triền cái đó chính là lúc sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy rõ sự nguy hiểm của những gì đang trói buộc tâm thức chúng ta. Sự phát triển tư duy chân chánh và Chánh kiến có mặt cao lớn hơn lại đến ngay sau sự từ bỏ các ý niệm và hiện tại đang là. Trong lúc này, thiền sinh an trú tâm vào đối tượng và đi sâu, suy xét kỹ đối tượng, nhờ đó không còn nghi hoặc. Tâm cần quán sát và ghi nhận rằng sự tư duy được kéo dài ra hay tư duy được duy trì tức là sự có mặt của thiền chi Tứ; nhờ sự duy trì liên tục lên đối tượng, trú trên đối tượng nên niệm lực được rõ ràng và dứt trừ lưới nghi.

Trong khi hành thiền, nghi ngờ hoàn toàn tan biến khi tâm thức có đối tượng để ghi nhậntin tưởng vào sự vắng lặng là không còn gây rối loạn với các đối thoại, tạp niệm bên trong. Kinh nghiệm của tuệ tri chỉ ra rằng những gì hiện hành ra bên ngoài hoặc trong tâm thức chính là kết quả của sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới vừa đi ra. Nghi ngờ cũng có tướng trạng của một quá trình của các khía cạnh vô thường, quan trọng là sự ghi nhận sự biểu hiện của các tâm hành trong giây phút hiện tạiHành giả không mệt mỏi, bước đi những bước đi đầy tỉnh giác, hứng khởi, an tịnh và giải thoát trên con đường thiền định.

Ở giai đoạn này, hành giả cần có sự học Pháp một cách sâu sắc, bằng cách học và thực tập hai chi phần quan trọng trong Bát chánh đạo, đó là Chánh kiến và Chánh tư duy để nhận ra được sự an tịnh và giải thoát. Trong Kinh Tương Ưng Bộ, Thiên Đại PhẩmTương Ưng Đạo, Đức Phật định nghĩa Chánh tri kiến và Chánh tư duy như sau: “Thế nào là chánh tri kiến? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duyvô sân tư duyvô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy”.

Ứng dụng hai chi phần này trong lúc hành thiền tức là thiền sinh cần ổn định dứt khoát rằng pháp Niệm hơi thở vào hơi thở ra tự nó đã là pháp đối trị với các thứ vọng động, loạn tưởng (theo như kinh nghiệm của Đức Thế Tôn trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ); đó chính là chánh niệm, pháp tu ấy dẫn đến định, có nghĩa là đi ra khỏi mọi thứ loạn động, loạn tưởng.

Nghệ thuật của sự an lạc và hạnh phúc chính là sự ghi nhận và buông xả. Nói cách khác, buông xả là buông xả tham ái và chấp trước mọi pháp được tác thành, được làm ra. Không còn nghi ngờ gì nữa hành giả đang bước đi trên con đường đạo, con đường đó là sự tự do đích thực.

3. Kết quả và lợi ích

Thực tập thiền định bằng phương pháp Quán niệm hơi thở là phương pháp đi thẳng vào tâm thức bằng nghị lực và ý chí của chính mình. Đó là con đường của sự nhận diện các tâm hành trong giây phút hiện tại, nó rất thiết thực và rất hiện tại. Khi tham dục và chấp thủ được buông xảđịnh lực và tuệ giác tự có mặt. Một khi từ bỏ năm triền cái và duy trì được sự an định này trong khoảng thời gian đủ dài thì thiền sinh sẽ vào Cận định (upacāra); và sẽ vào An chỉ định (appanā) khi đã làm cho sung mãn (phát triển dồi dàonăm thiền chi:

+ Tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng),

+ Tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng),

Hỷ (hân hoanvui mừng),

+ Lạc (an lạc)

+ Nhất tâm (an định). 

Thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Thiền sinh phải xét duyệt từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

Chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm tu tập đối tượng của thiền một bài học vô vàn quý giá rằng: nếu hành giả luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý nghĩa như thật của các đối tượng; chúng có tướng trạng, chúng vô thường và tướng trạng đó luôn luôn không có tự ngã, chúng tập nghiệp khổ đauhành giả sẽ vượt nhanh qua được các ngăn cản trong Thiền định, sẽ hoàn toàn đoạn trừ được các cảm thọlạc, khổ và các tưởng đi đến các cảm thọ lạc, khổ, sẽ hoàn toàn được tịnh chỉ.

Một kết quả thiết thực trong việc đối trị năm triền cái đó là việc tu tập nằm ở chỗ an trú trong chánh niệm về KhổVô thườngVô ngã của các pháp để xả ly tham ái và chấp thủ. Nghệ thuật của hạnh phúc là sự giải thoát khổ đau có mặt ngay trong sự buông xả.

(Bài pháp học và pháp hành ứng dụng trong Thiền định được học và ứng dụng tại Pháp Thuận Thiền Viện – Dharma Meditation Temple, Valley Center, San Diego County, California, USA).

Trân trọng,

An vui với Lòng từ,

Khất sĩ Thích Giác Chinh.

Xem nguồn: Đối trị năm triền cái (trướng ngại; Ngăn che) trong Thiền định

Chương Tóm Lược Các Định Luật Và Định Đề

CHƯƠNG MỞ ĐẦU
TÓM LƯỢC CÁC ĐỊNH LUẬTĐỊNH ĐỀ

Các Định luật và Đình đề vũ trụ trích từ các sách của Chân sư và Hiền triết.

1. Định Luật Chu Kỳ – Law of Periodicity chi phối mọi biểu lộ, dù là biểu lộ của một Thái Dương Thượng Đế qua một Thái Dương hệ, hay là biểu lộ của con người qua hình hài. Định luật này cũng kiểm soát trong mọi giới của thiên nhiên.

2. Có một số định luật khác trong Thái Dương Hệ được liên kết với định luật này;
a. Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy)… định luật chi phối vật chất, Ngôi Ba.
b. Định luật hấp dẫn (Law of Attraction)… định luật chi phối Linh hồn, Ngôi Hai.
c. Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)… định luật chi phối tinh thần, hay Ngôi Một.

3. Ba định luật này là định luật vũ trụ. Có 7 định luật thuộc Thái Dương Hệ đang chi phối sự biểu lộ của Thái Dương Thượng Đế chúng ta:
a. Định luật Rung động (Law of Vibration)
b. Định luật Kết hợp (Law of Cohesion)
c. Định luật Phân tán (Law of Disintegration)
d. Định luật Kiểm soát Từ điển (Magnetic Control)
e. Định luật Qui định (Law of Fixation)
f. Định luật Bác Ái (Law of Love)
g. Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death)

4. Mỗi một trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một cõi này, hoặc cõi khác trong 7 cõi của Thái dương hệ.

5. Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ qui nguyên của nó.

6. Mỗi sự sống biểu lộ đều có 3 chu kỳ lớn :
Khai sinh (Birth) Linh hoạt (Life) Tử Vong (Death)
Xuất hiện Tăng trưởng Biến mất
Giáng hạ tiến hoá Thăng thượng tiến hoá Qui nguyên
Bất động Hoạt động Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng

7. Việc hiểu biết về các chu kỳ bao gồm việc hiểu biết về con số, âm thanh và màu sắc.

8. Chỉ có các Chân Sư hoàn thiện mới có được sự hiểu biết đầy đủ về bí nhiệm của các chu kỳ

* 5. Định luật Tương Ứng sẽ giải thích các chi tiết của mối liên quan này. Định luật Tương Ứng hay Tương Đồng này là định luật giải thích của Thái dương hệ và giải thích Thượng Đế cho con người. Trích: Luận Về Lửa Càn Khôn _ tr 32, 33