All posts by Quản Trị Biên Tập

" Phụng sự mà biết mình đang phụng sự thì chưa phải phụng sự " Ghi trong Menu tổng: Người dùng, Menu con: Hồ sơ của bạn

QU01 – BC – Môn 110: Các Nguyên Lý Cơ Bản (Tháng 1 & 2/ 2020)

BÁO CÁO MÔN HỌC 100: CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
(Gồm 2 học phần – 2 báo cáo cho 2 tháng đầu tiên 2020 từ Đông Chí 12/2019)

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 01
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 02
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 03
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

A – BÁO CÁO HỌC PHẦN 04
( Chọn chủ đề báo cáo: Nguyên Lý thứ II – Tất cả tuân theo Luật Tuần Hoàn) 

 

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

 

QU01- Phúc Trình Tham Thiền Trăng Tròn

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH KHÓA QU 01
THAM THIỀN – NGHIÊN CỨU – PHỤNG SỰ HÀNG THÁNG

A- Mẫu phúc trình MSS cho LHY: Tham thiền, Nghiên Cứu và Phụng sự – Nửa Sáng Của Năm

I- Tham Thiền

  1. Liệt kê tất cả các bài tham thiền mà bạn đã thực hiện trong giai đoạn này cho đến và bao gồm cả Tham Thiền Trăng Tròn. (Vui lòng ghi các tư tưởng hạt giống được sử dụng. Nếu bài thiền không có tư tưởng hạt giống, lưu ý các chủ đề chung của bài thiền.)
  2. Dưới mỗi bài thiền được liệt kê, mô tả những kinh nghiệm nội tại của bạn và bất kỳ sự hiểu biết hoặc tri kiến sâu sắc nào đến với bạn về chủ đề chung của bài thiền và ảnh hưởng của nó đối với tâm thức của bạn. (Đây không phải là một câu trả lời sách vở mà bạn sẽ sử dụng để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của các môn học mà một số các bài tam thiền được liên kết.)
  3. Bạn đánh giá chất lượng tâm thức của bạn như thế nào trong quá trình tham thiền? Bạn nghĩ rằng bằng cách nào tâm thức của bạn có thể được tinh luyện, làm sâu sắc và mở rộng ra?
  4. Ghi bất kỳ câu hỏi hoặc mối quan tâm về công việc tham thiền của bạn hoặc bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống nội tâm của bạn.

(Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nhạy cảm nào mà bạn không muốn chia sẻ với nhóm sinh viên, vui lòng gửi email cho người cố vấn của bạn trực tiếp. Hoặc gửi email tới Michael và Vicktorya, infinitize8@gmail.com; vsk@makara.us)

II- Nghiên cứu

  1. Đối với mỗi môn học, hãy chọn và trả lời một câu hỏi từ mỗi học phần hai tuần lễ (hoặc hàng tháng). (Vui lòng liệt kê các câu hỏi mà bạn đang trả lời.)

Cố gắng trả lời ‘ngắn gọn nhưng đầy đủ’ và bao gồm TẤT CẢ các môn học trong phúc trình MSS của bạn.

  1. Nếu bạn đã học được bất cứ điều gì quan trọng trong bất kỳ môn học nào, vui lòng mô tả việc học đó sau khi bạn đã trả lời các câu hỏi cho môn học.
  2. Ngoài ra, sau khi bạn trả lời các câu hỏi cho mỗi môn học, vui lòng liệt kê bất kỳ câu hỏi nào của bạn có thể có liên quan đến chủ đề trong môn học cụ thể đó.

III- Phụng sự (Đây KHÔNG phải là trả lời cho môn học 170, 270, v.v Phụng sự & Các Giải pháp của bạn, mà là sự hiểu biết cá nhân của bạn và việc áp dụng trong phụng sự)

  1. (Khi bạn đã đề cập đến phần này trong môn học Phụng sự & Giải pháp 170), hãy mô tả mọi sự hiểu biết sâu sắc về phụng sự của bạn, Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian hoặc Các Nhóm Hạt giống nói chung. Việc bạn học về các Nhóm Hạt giống trong môn học Phụng sự và các Giải Pháp pháp làm tăng nhận thức của bạn về các phương pháp phụng sự như thế nào? Chia sẻ bất kỳ sự hiểu biết mới về phụng sựthể đã đến với bạn.
  2. Các khu vực Nhóm Hạt giống nào thu hút bạn, hoặc có thể liên quan đến hoạt động bạn đang làm? Khi bạn tìm hiểu thêm về các lĩnh vực ảnh hưởng và biểu hiện của nhóm hạt giống, hãy chú ý đến các nhiệm vụ nhóm hiện tại đang nghiên cứu (xem 170, 270, v.v.) và thảo luận về mối quan hệ bạn cảm thấy với công việc của Nhóm này, hoặc nếu bạn thấy các trường hợp công việc này có thể nhìn thấy trên thế giới? Các ví dụ đáng chú ý về công việc này (hoặc bất kỳ) Công việc của Nhóm Hạt giống nào đã thu hút sự chú ý của bạn?

 

PHẦN 01
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN MA KẾT

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 02
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN BẢO BÌNH

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 03
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SONG NGƯ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 04
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN BẠCH DƯƠNG

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 05
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN KIM NGƯU

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 06
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SONG TỬ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

 

B – Mẫu Phúc Trình MSS cho DHY: Tham thiền, Nghiên Cứu và Phụng sự Nửa Tối Của Năm

I- Tham Thiền

  1. Liệt kê tất cả các bài tham thiền (và các tư tưởng hạt giống) mà bạn đã thực hiện trong giai đoạn này cho đến và bao gồm cả Tham Thiền Trăng Tròn. (Xin vui lòng bao gồm các tư tưởng hạt giống được sử dụng. Nếu bài thiền không có tư tưởng hạt giống, lưu ý các chủ đề chung của bài thiền.)
  2. Dưới mỗi bài thiền, mô tả những kinh nghiệm nội tại của bạn và bất kỳ sự hiểu biết hoặc tri kiến sâu sắc nào đến với bạn.
  3. Hãy xem xét sự tiến bộ của bạn theo thời gian, và cách bạn có thể cải thiện hiệu quả của bạn trong việc tham thiền, cả cụ thể lẫn nói chung.
  4. Bao gồm bất kỳ câu hỏi hoặc mối quan tâm về công việc tham thiền của bạn hoặc bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống nội tâm của bạn.

(Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nhạy cảm nào mà bạn không muốn chia sẻ với nhóm sinh viên, vui lòng gửi email cho người cố vấn của bạn trực tiếp. Hoặc gửi email tới Michael và Vicktorya, infinitize8@gmail.com; vsk@makara.us)

II- Phúc Trình Nghiên cứu

  1. Trong Nửa Tối Của Năm (DHY), sinh viên hệ thống hóa và đồng hóa những gì đã học được trong Nửa Sáng Của Năm, hoàn thiện sự hiểu biết về kiến ​​thức đã đạt được.
  2. Chủ đề của bài tiểu luận mà bạn định viết cho mỗi môn học đã học là gì — bao gồm ba khóa học ngắn và ba khóa học đầy đủ.
  3. Tại sao bạn chọn những chủ đề này, và bạn mong muốn tìm hiểu hoặc chứng minh điều gì bằng cách tập trung vào chúng như một chủ đề cho các bài tiểu luận môn học của bạn.
  4. Bạn có bất kỳ câu hỏi nào có liên quan đến các chủ đề hoặc việc thực hiện các bài viết được đề xuất của bạn; có bất kỳ điểm cần làm rõ nào mà bạn cho rằng sẽ giúp ích bạn trong việc viết các bài tiểu luận của bạn?
  5. Nếu bạn có các dự án sáng tạo khác với việc viết các bài tiểu luận của môn học, hãy thảo luận ý kiến ​​của bạn.
  6. Khi bạn suy ngẫm về các tiểu luận bạn dự định viết, có bất kỳ thông tin chi tiết mới nào mà bạn định sử dụng không? Vui lòng mô tả bất kỳ thông tin chi tiết này sau khi bạn thảo luận về từng bài tiểu luận của môn học.
  7. Lịch trình dự kiến ​​để nộp các bài tiểu luận môn học của bạn là gì? Bạn có đúng lịch không?
  8. Bạn có muốn thảo luận thêm về công việc sáng tạo của mình trong DHY không?

III- Phụng sự (Đây KHÔNG phải là trả lời cho môn  học 170 hoặc 270, Phụng sự & Các Giải pháp của bạn, mà là sự hiểu biết cá nhân của bạn và việc áp dụng trong phụng sự)

  1. Mô tả bất kỳ sự sâu sắc nào trong hiểu biết của bạn về phụng sự, Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian hoặc Nhóm Hạt giống nói chung. Việc bạn học về các Nhóm Hạt giống trong môn học Phụng sự và Các Giải Pháp làm tăng nhận thức của bạn về các phương pháp phụng sự như thế nào?
  2. Các khu vực Nhóm Hạt giống nào thu hút bạn, hoặc có thể liên quan đến hoạt động bạn đang làm? Khi bạn tìm hiểu thêm về các lĩnh vực ảnh hưởng và biểu hiện của nhóm hạt giống, hãy chú ý đến các nhiệm vụ nhóm hiện tại đang nghiên cứu (xem 170, 270, v.v.) và thảo luận về mối quan hệ bạn cảm thấy với công việc của Nhóm này, hoặc nếu bạn thấy các trường hợp công việc này có thể nhìn thấy trên thế giới? Các ví dụ đáng chú ý về công việc này (hoặc bất kỳ) Công việc của Nhóm Hạt giống nào đã thu hút sự chú ý của bạn?

 

PHẦN 07
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN CỰ GIẢI

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 08
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN SƯ TỬ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 09
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN XỬ NỮ

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 10
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN THIÊN BÌNH

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 11
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN HỔ CÁP

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN 12
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN NHÂN

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

PHẦN CUỐI – CHUYỂN KHÓA HỌC
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH TRĂNG TRÒN MA KẾT

asdgsdgfdhfdhfgchfghfg

Đối Trị Năm Triền Cái – Thiền Phật Giáo

ĐỐI TRỊ NĂM TRIỀN CÁI TRONG THIỀN ĐỊNH
Thích Giác Chinh

Đầu tiên, thiền sinh bước vào giai đoạn hành thiền là tạm thời đè nén chúng để đắc thiền-na và phát Tuệ minh sát, là 2 yếu tố then chốt cho việc đoạn trừ Năm triền cái, bước tiếp theo thiền sinh dần dần chế ngự chúng một cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Đạo.

Triền Cái tức là ngăn che. Năm chướng ngại ngăn che làm cho hành giả thực hành thiền không thấy được tâm an tịnhxả ly và giải thoát. Theo kinh nghiệm của Đức Thế Tôn thông qua bài KinhTứ Niệm Xứtoàn bộ pháp hành đưa đến Giác ngộ có thể được diễn tả như một nỗ lực để vượt qua năm chướng ngại này. Năm chướng ngại đó là:

1.  Tham dục (Kamachanda),

2.  Sân hận (Vyapada),

3.  Hôn trầm (Thiramiddha),

4.  Trạo cử (Udhaccakukucca),

5.  Nghi ngờ (Vicikiccha).

Khi tâm không được tu tập nghiêm túc và không an tịnh thì thường bị Năm triền cái này chi phối, và không thể tiến bộ trong công phu thiền quán. Hành thiền là tu tập đoạn trừ Năm triền cái và thay thế bằng Năm thiền chi (Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm).

+ Nhờ Tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng) đối trị được Hôn trầm – Thụy miên;

+ Nhờ Tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng) đối trị được Nghi;

+ Nhờ Hỷ (hân hoanvui mừngđối trị được Sân;

+ Nhờ Lạc (an lạcđối trị được Trạo cử

+ Nhờ Nhất tâm (an địnhđối trị được Tham dục.

Vì vậy, trọng việc thực hành Thiền định, đoạn trừ Năm triền cái tức là đã chặn đứng một cách vĩnh viễn chướng ngại chính cản trở sự thành tựu Thiền-na và phát triển Tuệ giác. Lộ trình tu tập giải thoát là sự trải qua của những quá trình thấy rõ các khía cạnh vô thường của Năm chướng ngại, chúng nguy hiểm, khổ đau và không có tự ngã.

2.  Đối tượng của tu thiền là loại bỏ năm triền cái

2.1.Tham dục: 

Đối tượng thứ nhất của hành thiền là Tham dục, là sự tham muốn các tham ưu ở đời. Tu tập đoạn trừ Tham dục là đi ra khỏi các tham ưu ở đời. Dục(kāmanày gồm có năm loại:

(i)- Sắc dục, tức là tham đắm về nét đẹp liên hệ đến thân vật lý hoặc cảnh trần;
(ii)- Thanh dục: Tham đắm âm thanh như du dương trầm bổng hoặc tiếng vừa ý liên hệ đến nhĩ căn;
(iii)- Hương dục: Tham đắm về mùi liên hệ đến tỷ căn;
(iv)- Vị dục: Tham đắm về vị ngọt liên hệ đến thiệt căn;
(v)- Xúc dục: Tham đắm về xúc chạm liên hệ đến thân căn.

Theo Kinh Ví Dụ Con Rắn (số 22) trongTrung Bộ KinhĐức Thế Tôn đã khẳng định các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn” và đưa ra 10 ảnh dụ về sự nguy hiểm của dục:

“... (i) ví như khúc xương; (ii) ví như một miếng thịt; (iii) ví như bó đuốc cỏ khô; (iv) ví như hố than hừng; (v) ví như cơn mộng (vi) ví như vật dụng cho mượn; (vii) ví như trái cây (viii) ví như lò thịt; (ix) ví như gậy nhọn; (x) ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn“.

Những ức chếlòng ham muốn, sự sinh ra những cảm giác mong ước tìm kiếm khoái lạc trong những hoạt động sắc dục hoặc và bao gồm lòng ham muốn thay thế các cảm giác khó chịu, đau đớn bằng các cảm giác dễ chịu; sự nảy sinh theo sau dục khởi này là lòng ham muốn được có cảm giác thoải mái. Trong một quá trình nảy sinh và biến thiên của các hoạt động tâm tiêu cực như thế, những cảm giáccảm xúc dấy lên trong tâm, hành giả nhiệt tâm, tinh cầntỉnh giác trong hơi thởthở rathở vào biết chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tínhnhận biết chúng là thế gian hay xuất thếbiết tính vô thườngcủa chúng, hành giả vượt ra các tham ưu ở đời.

Vì sao thiền sinh không nếm được hỷ, lạc của thiền vị? Vì các dục khởi lên bên trong các hoạt động của tâm và quấy nhiễu làm cho tâm và thân xao động, cuốn theo các cảm thọVì vậy trong khi hành thiền là hành giả đang đối diện với tâm của mình. Quán Tâm là chú ý đến các tâm pháp đang hiện hànhbiết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si (các hoạt động của Tâm sở), để chặn đứng các tâm hành; ở đây là những tâm hành Tham dục.

Khi thực tập, định sẽ có mặt do quán hơi thở, khi được tu tập, được làm cho sung mãn tức là an tịnh. Sự tỉnh giác trong hơi thởthở rathở vào, cũng như tỉnh giác trong bốn oai nghi của thân (đi, đứng, nằm, ngồi)Tỉnh giác trong mọi hoạt động của thân thểquán sát 32 phần thân thểquán sát yếu tố tạo thành thân cũng như quán tử thiThiền sinh trú chánh niệmtỉnh giácThiền sinh khi đi tới, khi đi lui, đều tỉnh giác; khi nhìn tới, khi nhìn lui, đều tỉnh giác; khi co cánh tay, duỗi cánh tay, đều tỉnh giác; khi đắp y, khi mang y bát, đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai nếm, đều tỉnh giác; khi đi tiểu tiện, đại tiện, đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, đều tỉnh giácThiền sinh vượt qua lòng tham dục bằng cách buông xả mọi quan tâm về thân thể và hoạt động của năm giác quanbiết rõ sự nguy hiểm của dục. Đến đây thiền sinh nên khéo léo phát khởi ý niệm về hạnh phúcan lạc của Thiền định và sự cần thiết của một căn bản Thiền định để đi sâu vào tuệ giác; chính trạng thái tâm hành tích cực này là niềm phấn khởi hân hoan đi vào Thiền định, dễ dàng buông thả dục lạc rơi lại phía sau.

Như vậy, trong một quá trình kiểm soát thân-tâm có mặt của thiền lực và chánh niệm thiền sinh nếm được hỷ-lạc nhờ có tỉnh giác. Đến đây, thiền sinh vui hưởng hạnh phúc hỷ lạc của Thiền-na (jhana)nhờ biết xả ly các quan tâm về thân và năm giác quan của nó. Sự nảy sinh tuệ giác theo sau pháp vị Thiền-na. Vì vậy, trong bài Kinh Tứ Niệm XứĐức Thế Tôn nói tu tập đoạn trừ Tham dục là đi ra khỏi các tham ưu ở đời, nghĩa là “ly dục, ly ác pháp bất thiện pháp”.

2.2.Sân hận

Chức năng của việc đem tâm an trú vào các tầng thiền-na (jhana), một chi phần Chánh Định của Bát Chánh Đạo là để đoạn tận tất cả năm Triền cái để giúp triển khai tuệ giác của thiền lực trong quá trình thực hành. Nhưng vì định lực và thiền lực không mạnh mẽ và đầy đủ nên tâm hướng theo các hoạt động hướng ngoại, gây nên sự tham ưu và thù oán hoặc nảy sinh ý niệm tự ngã, làm cho sân phiền não xâm chiếm tâm.

Đến đây, thiền sinh đối mặt với Sân hận triền cái, là bức màn của sân nhuế ngăn che thiền hỷ dẫn đến sự phát khởi sự tham ưu ở đời. Chỉ cho trạng thái mong muốn và khao khát báo thù, gây khổ hoặc thù ghét một người hoặc một hoàn cảnh nào đó, ở mức vi tế của nó là đề cao bản thân, lòng tự ngã, tự ti hoặc mặc cảm của mình. Thiền sinh liền bị vướng vào vòng xoáy của nóng giận, bứt rứt và khó chịu, các cảm thọ này tiêu diệt sự an tịnh và mát mẻ của thân tâm. Một biểu hiện tâm sân hận thứ hai, song song hoặc tìm ẩn với trạng thái trên trong khi hành thiền chính là tâm hành chối bỏ, sự chán ghét vào chính đối tượng thiền quán; vì sân nhuế chế ngự tâm tạo ra một năng lực mãnh liệt, mê hoặc và hấp dẫn tâm hành giả lang thang qua các nơi khác hoặc bỏ rơi sự chú tâm của ta vào đề mục chính.

Chính lúc hành thiền chưa đủ thiền lực hoặc trong các hoạt động đi, đứng, nằm, ngồi hàng ngày chưa dồi dào chánh niệm làm phát sinh một loạt tâm lý vội vã, nôn nóng, nóng giận và ghét bỏ, v.v… Hãy cẩn thận, khéo léo định tâm vào hơi thởhơi thở vào, hơi thở ra một cách điều hòa, an tịnhtừ từ sân nhuế được nhìn thấy rõ ràng hơn và hành giả nhận thấy được sự nguy hiểm của sân phiền nãohành giải phát khởi tâm từ và chánh niệm quán chiếu tham ưu của các tướng trạng tâm lý chúng vô ngãvô thườngTiếp theothiền sinh chú tâm vào hơi thở có tầm có tứ thì thiền hỷ sẽ phát sinh. Như thế, khi có sân hận trỗi dậy, sự quán chiếu bi mẫn sẽ giúp ta thấy được lỗi lầm của chính mình, khuyến khích ta tự tha thứ cho chính mình, giúp ta học được bài học đó rồi buông xả chúng. Sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy rõ sự nguy hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang trói buộc tâm thức chúng ta. Chính lúc thiền sinh luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý niệm của hiện tại lại chính là thiền lực để nuôi dưỡng niềm vui hỷ thiền nhằm đối trị sân nhuế phiền não.

Nghệ thuật của sự chế ngự cơn giận để có an bìnhtự do và hạnh phúc đích thực chính là sự nhận diệnchuyển hóabuông xả và phát khởi tình thương. Sự nảy sinh tuệ giác theo sau pháp vị bi mẫn trong thiền vị, đi ra khỏi các tham ưu ở đời.

2.3. Hôn trầm

Hành Thiền, nếu bạn không giữ được chánh niệmtỉnh giác thì bạn sẽ rơi vào một trong ba trạng thái tâm lýtrạo cửhôn trầm và vô ký. Trạng thái tâm lý mệt mỏiuể oải, lười biếng, buồn ngủ khi ngồi Thiền gọi là trạng thái hôn trầm thụy miên, trong một vài trường hợp thiền sinh ngủ hẳn đi một lát. Ở giai đoạn này, khi Thiền sinh theo dõi một đối tượng trong khoảng thời gian khá lâu, sự theo dõi có thể lơi dần, yếu dần, rồi mất dần luôn sự kiểm soát. Khi ấy, tâm lý của hành giả chìm vào hôn trầmTrạng thái tâm lý này sẽ ngăn trở bước tiến thực hành Thiền định, vì tuệ tri và tuệ giác không có mặt, lâu dần bào mòn sự an tịnh của thân tâmVượt qua đối tượng này, thiền sinh cần nỗ lực đi ra khỏi hôn trầm.

Cần một chút tỉnh giác và tinh tấn để nhận diện ra được cơn hôn trầm đang diễn ra. Trong khi hành thiền, nó làm cho ta chỉ có những giác niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó đưa đến sự ngủ gục trong lúc thiền mà ta lại không biết. Khi biết mình đang bị hôn trầmthiền sinh liền thức tỉnh tìm cách đi ra. Đừng lo lắng hoặc chán nản, hãy theo dõi và quán niệm hơi thở, thiền lực sẽ dần có mặt nhờ sự theo dõi chú tâm và chánh niệm; để sự chú ý ngay trên đỉnh đầu một lát cho đủ tỉnh táo, rồi tự đánh thức mình ngay, khởi niệm nỗ lực ngay, trở về theo dõi chuyên sâu vào hơi thở vào ra một cách đều đặn.

Trong quá trình hành thiền và phát triển tuệ giác, các thiền sinh không chỉ cố mà hành thiền là sẽ hiệu quảkinh nghiệm cho thấy cần một số tham khảo từ các bậc thầy Thiền sư hoặc các bài kinh liên quan đến thiền định mà Đức Phật đã giảng dạy, đó là con đường thiền định mà Thế Tôn đã đi qua. Ở đây, Một số phương pháp đối trị hôn trầm mà Thế Tôn đã dạy cho Tôn giả Mục-kiền-liên trong Tăng Chi 3A, tr 85-86, bản dịch của HT. Minh Châu, 1981, có thể tham khảo và vận dụng như sau:

i.  Khi hành thiền đang ở tưởng nào mà thụy miên kéo đến thì rời khỏi tưởng ấy, đừng tác ý đến tưởng ấythụy miên sẽ tan đi.

ii. Nếu rời khỏi tưởng ấy mà thụy miên vẫn còn, thì tư duy các giáo lý đã nghe, đã học thuộcThụy miên sẽ bị loại trừ.

iii. Nếu tư duy như thế mà thụy miên vẫn không tan, thì đọc tụng Pháp như đã nghe, đã học thuộc. Thụy miên sẽ bị loại trừ.

iv. Nếu thực hiện như vậy mà thụy miên vẫn chưa tiêu, thì sẽ kéo mạnh hai lỗ tai và lấy hai tay xoa bóp tay, chân cho tỉnh.

v. Nếu làm như thế mà thụy miên vẫn tồn tạithì sẽ rời khỏi chỗ ngồi Thiền, ra ngoài lấy nước mát rửa mặt, nhìn về phía phương trời xa xăm sáng sủa, hay nhìn lên các vì sao (nếu về đêm), thụy miên sẽ tan mất.

vi. Nhưng nếu các biện pháp trên không có kết quả, thì hãy tác ý tưởng đến ánh sáng, tưởng ban ngày. Như thế, với tâm mở rộng, không hạn chếtu tập tâm chói sáng, sẽ là tiêu tan hôn trầm.

vii. Nếu tưởng ánh sáng… không có kết quả, thì hãy đi kinh hành, tác tưởng trước mặt và sau lưng, để tâm hướng nội, thụy miên sẽ bị loại trừ.

viii. Nếu các biện pháp đối trị khi ngồi, khi đứng, khi đi không có hiệu quảthì hãy nằm theo dáng nằm của sư tử, nghiêng về hông phải, đôi chân gác lên nhau, giữ chánh niệm các tưởng thức dậy thật maukhông khởi niệm ham thích nằm ngủan trú như vậy, thụy miên sẽ tiêu tán.

Một đoạn tóm lược ngắn kinh nghiệm đối trị hôn trầm mà Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn giả Mục-kiền-liên hầu hết được các trường thiền ứng dụng, với mỗi hành giả độc lập cũng có thể ứng dụng phương pháp này.

Đó là một quá trình nhận diệnchuyển hóa và thoát ra khỏi cơn hôn trầm của một thiền sinh thiện xảo. Khi đang theo dõi một đối tượng, nhưng đối tượng không được liên tục bỗng lững quên đi một chốc, đánh mất sự kiểm soát của thân và tâm, không nhận diện được đề mục là lúc hành giả bị rơi vào hôn trầm. Chỉ cần tỉnh giácđịnh tâm vào hơi thởHơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thởhơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy đưa thiền sinh đến chánh niệm vững mạnh và có tuệ giác tri, liền đi ra khỏi hôn trầm ấy ngay.

Mặt khác, trong khi hành thiền sự vi tế của các trạng thái tâm cũng có thể đưa hành giả đến trạng thái vô ký. Nó là một trạng thái tâm lý không phải là tỉnh giác, không phải trạo cử, cũng không phải là hôn trầm mà chỉ hơi ngã về hôn trầm gọi là trạng thái vô ký. Không khéo tỉnh thức và chú ý đến niệm lực thì trạng thái tâm lý khờ khờ mà tâm không có khả năng ghi nhận vì có thể ngỡ là đang tỉnh táothiền sinh cần quán niệm tỉnh giác đánh thức mình đi ra khỏi trạng thái ấy ngay, đừng lầm lẫn nó với trạng thái tâm lý lắng đứng, an tỉnh. Vì Vô ký là biểu hiện của si tâm, tướng biểu hiện bên ngoài của hành giả là tướng trơ lặng hay thân tướng lắc lưChỉ cần tỉnh giác theo dõi hơi thở vào ra thì tâm lý vô ký lặn mất ngay.

Theo kinh nghiệm của Đức Thế Tôn dựa trên bài Kinh Tứ Niệm Xứhành giả cần nhận thức rằng: Với ai khi trú, quán thân trên thân mà hoặc thân sở duyên khởi lên, hoặc thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại, đó là vị ấy không biết nơi trú, không biết quán thân trên thân, đưa đến kết quả tệ hại; do vậy, vị ấy cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tínhân hoan (trong Tứ Niệm Xứ Kinh ghi nhận đó là: Thắng hỷ: pàmujjam) sinh ra. Người có lòng hân hoanhỷ sinh ra. Người có lòng hỷ, thân được khinh an. Người có lòng khinh anlạc thụ sinh. Người có lòng lạc thụ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: “Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút lui (patisamharàmi) khỏi đối tượng tịnh tín”. Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: “Không tầm, không tứ, nội tâm chính niệm, ta được an lạc”.

Nghệ thuật nhận diện sự an tịnh của cái thấy và cái biết trong khi hành thiền để làm cho cái tâm trở nên tinh nhuệ chính là sự nhận diện được tác nhân và biết được đối tượng của chúng một cách rõ ràngtu tập chánh niệm tỉnh giác nhiếp phục tham ưu ở đời.

2.4. Trạo cử (Giao động)

Nếu trong khi hành thiền, thiền sinh không thể dừng tâm vào một đối tượng đã chọn như ý muốn, tâm cứ chạy dài từ đối tượng này qua đối tượng khác, thì đấy là trạng thái tâm lý dao động, hay gọi là trạo cử. Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi (ở đây là thiền chi Lạc, vì nhờ Lạc đối trị được Trạo cử), là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che trong giai đoạn này đó là trạo cửTrạo cử là một tâm lý, gây trở ngại, ngăn cách với Thiền định. Nó là một tâm hành tiêu tốn nhiều năng lượng, vì nó diễn ra bên trong các hoạt động của tâm lẫn sự khuấy động của thân, thiền sinh cần nỗ lực vượt qua trạng thái tâm lý này.

Khi vừa nhận ra mình đang trạo cử, liền dừng suy tư, để sự chú ý theo dõi hơi thở vào ra một cách chuyên chú cho đến khi cảm thấy vừa ổn và nhận biết hơi thở một cách rõ ràng, tâm ghi nhận các hoạt động của hiện tại có mặt thiền sinh nhận diện sự có mặt của trạo cử; đến đây, thiền sinh có thể tiếp tục theo dõi hơi thởThiền chỉ hay trở ngại tư duy nếu thấy cần thiết. Lúc này, niệm lực của chánh niệm đã trở về lại, làm cho hành giả ý thứcghi nhận được sự lay động của thân tâm. Với những ai bị dao động nhiều bởi tư duy lúng túng của mình, thì chỉ nên theo dõi hơi thở hay hành Thiền chỉ trong một thời gian khá lâu trước khi có thể đi vào Thiền quán, hay chỉ quán song tu.

Đến đây, niệm lực và tâm ghi nhận vẫn chưa mạnh mẽ, dẫn đến sự xuất hiện của tâm hành vi tế trạo cử bên trong dòng tâm thức. Khi kiểm soát được sự trạo cử thô bên ngoài hành giả trở về đề mục thiền định, những lo nghĩưu tư của khởi lên tìm cách đi ra khỏi các kiết sử (thân, kiến, nghi, giới cấm thủ, dục, sân, hữu áivô hữu ái, mạn, trạo cửvô minh) là một hình thức trạo cử vi tế bên trong tâm hànhTheo như Kinh Đại Niệm Xứ thì trạng thái tâm lý trạo cử nào dù thô hay tế cũng chướng đạo, cũng ngăn che giải thoát cả, hành giả cần nhiếp tâm chánh niệmtỉnh giác để đi ra. Theo dõi một cách chuyên chú vào hơi thở vào ra, đình chỉ các ý niệm lao xao và chánh niệm tỉnh giác là biện pháp đối trị trạo cử một cách hữu hiệu.

Một lối sống thiểu dụctri túc và biết ơn trong đời sống hàng ngày giúp ích nhiều cho việc hành thiền và cắt đứt trạo hối. Sự trạo cử do lương tâm cắn rứt là vì hành nghiệp của lối sống không giới đức, các thiền sinh tập sống tử tế, khôn ngoan và dịu dàng sẽ làm cho thực lực của hỷlạc nhanh chóng có mặt trong lúc hành thiền. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.

Nuôi dưỡng và biết trân quý giây phút hiện tại chính là nghệ thuật của sự biết ơn. Lòng biết đủ và biết quý trong lúc này giúp cho thiền sinh nhận diện được thiền chi Lạc thiền, là thiền lực trong giai đoạn tiếp theo cho mỗi hành giả đoạn trừ sự lang thang trôi nổi.

2.5. Nghi ngờ

Vì sao thiền sinh hành thiền lúc thì biết rằng thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát; nhưng có lúc cũng nghĩ rằng không biết tu tập sẽ được gì, đó chính là sự xuất hiện của Nghi triền cái. Sự nghi ngờ ngăn che và vây phủ tuệ tri của thiền giả. Vì không nhận ra được mục tiêu và con đường của hành thiền nên hành giả không thể nào có sự tập trung tư tưởng. Một câu hỏi được đặt ra: Lý do tại sao nghi ngờ triền cái có mặt? Vì trong quá trình học Pháp, nghe Pháp và hành Pháp thiếu vắng sự tư duy chân chánh và Chánh kiến về Pháp; chỉ khi nào có Chánh kiến và nếm được Pháp vị thắng hỷ, tức là tịnh tínhân hoan (đã được Đức Phật đề cập trong Tứ Niệm Xứ Kinh), lưới nghi sẽ được tháo bỏ.

Khi hành giả nhận diện được nghi ngờ triền cái đó chính là lúc sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy rõ sự nguy hiểm của những gì đang trói buộc tâm thức chúng ta. Sự phát triển tư duy chân chánh và Chánh kiến có mặt cao lớn hơn lại đến ngay sau sự từ bỏ các ý niệm và hiện tại đang là. Trong lúc này, thiền sinh an trú tâm vào đối tượng và đi sâu, suy xét kỹ đối tượng, nhờ đó không còn nghi hoặc. Tâm cần quán sát và ghi nhận rằng sự tư duy được kéo dài ra hay tư duy được duy trì tức là sự có mặt của thiền chi Tứ; nhờ sự duy trì liên tục lên đối tượng, trú trên đối tượng nên niệm lực được rõ ràng và dứt trừ lưới nghi.

Trong khi hành thiền, nghi ngờ hoàn toàn tan biến khi tâm thức có đối tượng để ghi nhậntin tưởng vào sự vắng lặng là không còn gây rối loạn với các đối thoại, tạp niệm bên trong. Kinh nghiệm của tuệ tri chỉ ra rằng những gì hiện hành ra bên ngoài hoặc trong tâm thức chính là kết quả của sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới vừa đi ra. Nghi ngờ cũng có tướng trạng của một quá trình của các khía cạnh vô thường, quan trọng là sự ghi nhận sự biểu hiện của các tâm hành trong giây phút hiện tạiHành giả không mệt mỏi, bước đi những bước đi đầy tỉnh giác, hứng khởi, an tịnh và giải thoát trên con đường thiền định.

Ở giai đoạn này, hành giả cần có sự học Pháp một cách sâu sắc, bằng cách học và thực tập hai chi phần quan trọng trong Bát chánh đạo, đó là Chánh kiến và Chánh tư duy để nhận ra được sự an tịnh và giải thoát. Trong Kinh Tương Ưng Bộ, Thiên Đại PhẩmTương Ưng Đạo, Đức Phật định nghĩa Chánh tri kiến và Chánh tư duy như sau: “Thế nào là chánh tri kiến? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duyvô sân tư duyvô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy”.

Ứng dụng hai chi phần này trong lúc hành thiền tức là thiền sinh cần ổn định dứt khoát rằng pháp Niệm hơi thở vào hơi thở ra tự nó đã là pháp đối trị với các thứ vọng động, loạn tưởng (theo như kinh nghiệm của Đức Thế Tôn trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ); đó chính là chánh niệm, pháp tu ấy dẫn đến định, có nghĩa là đi ra khỏi mọi thứ loạn động, loạn tưởng.

Nghệ thuật của sự an lạc và hạnh phúc chính là sự ghi nhận và buông xả. Nói cách khác, buông xả là buông xả tham ái và chấp trước mọi pháp được tác thành, được làm ra. Không còn nghi ngờ gì nữa hành giả đang bước đi trên con đường đạo, con đường đó là sự tự do đích thực.

3. Kết quả và lợi ích

Thực tập thiền định bằng phương pháp Quán niệm hơi thở là phương pháp đi thẳng vào tâm thức bằng nghị lực và ý chí của chính mình. Đó là con đường của sự nhận diện các tâm hành trong giây phút hiện tại, nó rất thiết thực và rất hiện tại. Khi tham dục và chấp thủ được buông xảđịnh lực và tuệ giác tự có mặt. Một khi từ bỏ năm triền cái và duy trì được sự an định này trong khoảng thời gian đủ dài thì thiền sinh sẽ vào Cận định (upacāra); và sẽ vào An chỉ định (appanā) khi đã làm cho sung mãn (phát triển dồi dàonăm thiền chi:

+ Tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng),

+ Tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng),

Hỷ (hân hoanvui mừng),

+ Lạc (an lạc)

+ Nhất tâm (an định). 

Thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Thiền sinh phải xét duyệt từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

Chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm tu tập đối tượng của thiền một bài học vô vàn quý giá rằng: nếu hành giả luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý nghĩa như thật của các đối tượng; chúng có tướng trạng, chúng vô thường và tướng trạng đó luôn luôn không có tự ngã, chúng tập nghiệp khổ đauhành giả sẽ vượt nhanh qua được các ngăn cản trong Thiền định, sẽ hoàn toàn đoạn trừ được các cảm thọlạc, khổ và các tưởng đi đến các cảm thọ lạc, khổ, sẽ hoàn toàn được tịnh chỉ.

Một kết quả thiết thực trong việc đối trị năm triền cái đó là việc tu tập nằm ở chỗ an trú trong chánh niệm về KhổVô thườngVô ngã của các pháp để xả ly tham ái và chấp thủ. Nghệ thuật của hạnh phúc là sự giải thoát khổ đau có mặt ngay trong sự buông xả.

(Bài pháp học và pháp hành ứng dụng trong Thiền định được học và ứng dụng tại Pháp Thuận Thiền Viện – Dharma Meditation Temple, Valley Center, San Diego County, California, USA).

Trân trọng,

An vui với Lòng từ,

Khất sĩ Thích Giác Chinh.

Xem nguồn: Đối trị năm triền cái (trướng ngại; Ngăn che) trong Thiền định

Chương Tóm Lược Các Định Luật Và Định Đề

CHƯƠNG MỞ ĐẦU
TÓM LƯỢC CÁC ĐỊNH LUẬTĐỊNH ĐỀ

Các Định luật và Đình đề vũ trụ trích từ các sách của Chân sư và Hiền triết.

1. Định Luật Chu Kỳ – Law of Periodicity chi phối mọi biểu lộ, dù là biểu lộ của một Thái Dương Thượng Đế qua một Thái Dương hệ, hay là biểu lộ của con người qua hình hài. Định luật này cũng kiểm soát trong mọi giới của thiên nhiên.

2. Có một số định luật khác trong Thái Dương Hệ được liên kết với định luật này;
a. Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy)… định luật chi phối vật chất, Ngôi Ba.
b. Định luật hấp dẫn (Law of Attraction)… định luật chi phối Linh hồn, Ngôi Hai.
c. Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)… định luật chi phối tinh thần, hay Ngôi Một.

3. Ba định luật này là định luật vũ trụ. Có 7 định luật thuộc Thái Dương Hệ đang chi phối sự biểu lộ của Thái Dương Thượng Đế chúng ta:
a. Định luật Rung động (Law of Vibration)
b. Định luật Kết hợp (Law of Cohesion)
c. Định luật Phân tán (Law of Disintegration)
d. Định luật Kiểm soát Từ điển (Magnetic Control)
e. Định luật Qui định (Law of Fixation)
f. Định luật Bác Ái (Law of Love)
g. Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death)

4. Mỗi một trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một cõi này, hoặc cõi khác trong 7 cõi của Thái dương hệ.

5. Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ qui nguyên của nó.

6. Mỗi sự sống biểu lộ đều có 3 chu kỳ lớn :
Khai sinh (Birth) Linh hoạt (Life) Tử Vong (Death)
Xuất hiện Tăng trưởng Biến mất
Giáng hạ tiến hoá Thăng thượng tiến hoá Qui nguyên
Bất động Hoạt động Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng

7. Việc hiểu biết về các chu kỳ bao gồm việc hiểu biết về con số, âm thanh và màu sắc.

8. Chỉ có các Chân Sư hoàn thiện mới có được sự hiểu biết đầy đủ về bí nhiệm của các chu kỳ

* 5. Định luật Tương Ứng sẽ giải thích các chi tiết của mối liên quan này. Định luật Tương Ứng hay Tương Đồng này là định luật giải thích của Thái dương hệ và giải thích Thượng Đế cho con người. Trích: Luận Về Lửa Càn Khôn _ tr 32, 33

Hướng Dẫn: Hành Tinh, C. Hoàng Đạo – Các Nhà

CÁC HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT: PHÂN TÍCH CÁC
HÀNH TINH, CÁC DẤU HIỆU HOÀNG ĐẠO TRONG
CÁC NHÀ

GENERAL GUIDELINES: THE PLANETS AND SIGNS
THROUGH THE HOUSES
(Trích dịch từ THE TWELVE HOUSES của Howard Sasportas
In every corner of my soul, there is an altar to a different god.
Fernando Pessoa

Ideally, every factor in the chart should be interpreted in the light of the whole
chart; it is only then that the true significance of that placement can be appreciated
in relation to the broader pattern of an individual’s being and becoming. However,
as a step or aid in the process of ultimately synthesizing all the important factors
in the horoscope, this part of the book explores the possible interpretations of the
different planets and signs through the houses. The suggested meanings are by no
means conclusive, nor are they intended to be taken as gospel. It is hoped,
however, that the information given (most of which is drawn from personal
experience) will generate further thought and insight into the various and
numerous ramifications of each placement.

Lý tưởng nhất, mọi yếu tố trong lá số nên được diễn giải dưới ánh sáng của toàn bộ
lá số; chỉ khi đó, tầm quan trọng thực sự của vị trí đó mới có thể được đánh giá đúng
trong mối liên hệ với mô hình rộng lớn hơn của sự hiện hữu và tiến hoá của một cá
nhân. Tuy nhiên, như là một bước hoặc một hỗ trợ trong quá trình tổng hợp tất cả
các yếu tố quan trọng trong lá số chiêm tinh, phần này của cuốn sách tìm hiểu
những giải thích khả dĩ của các hành tinh và dấu hiệu khác nhau thông qua các
nhà. Các ý nghĩa được đề xuất hoàn toàn không hàm ý kết luận, cũng không có ý
định được coi là phúc âm. Tuy nhiên, người ta hy vọng rằng thông tin được cung
cấp (hầu hết được rút ra từ kinh nghiệm cá nhân) sẽ tạo ra thêm suy nghĩ và hiểu
biết sâu sắc hơn về những phân chia khác nhau của mỗi vị trí.
Nguyên tắc chung cho việc diễn giải các hành tinh trong các nhà – General

Guidelines for Interpreting Planets in the Houses
What exactly does a planet (or planets) situated in a house show or suggest? To
answer this, we need to recall that the astrological birthchart portrays
symbolically how an individual’s drives and urges are apt to express themselves.
Like the seed of a plant or a tree, it contains a blueprint of what the fully developed
person could grow into or become. The chart tells us something about the nature
of the seed, as well as offering some general indications about the process of the
seed’s unfoldment. On this basis, the birth map can be understood as a set of
instructions showing how a person can most naturally actualize his or her
potential.

Chính xác thì một hành tinh (hoặc các hành tinh) nằm trong một nhà hiển thị hoặc
gợi ý điều gì? Để trả lời điều này, chúng ta cần nhớ lại rằng lá số chiêm tinh miêu tả
một cách tượng trưng cách thức các động lực và các thúc giục của một cá nhân
thể tự thể hiện. Giống như hạt giống của một cây, nó chứa bản thiết kế về những gì
người phát triển đầy đủ có thể phát triển thành hoặc trở thành. Lá số cho chúng ta
biết một vài điều về bản chất của hạt giống, cũng như đưa ra một số chỉ dẫn chung
về quá trình phát triển hạt giống. Trên cơ sở này, lá số sinh có thể được hiểu là một
tập hợp các hướng dẫn cho thấy cách một người có thể hiện thực hóa tiềm năng
của mình một cách tự nhiên nhất.

Bearing this principle in mind, we can infer three basic guidelines for interpreting
a planet in a house:
1. When a planet is located in a house, the function or activity represented by the
planet finds its most natural area of expression in the field of experience referred
to by that house. The sign in which the planet is placed gives further information
about how this activity can be approached.
2. The reverse is also true: the area of life designated by the house in which a planet
falls is most naturally dealt with and handled in accordance with the type of
activity represented by the planet there.
3. A planet in a house also shows the nature of the archetypal principle we are born
already expecting to encounter through that area of life or facet of experience. It is
the kind of energy we are innately predisposed to perceive or meet in that domain.
It is the a priori image of that sphere of life which exists right from birth.

Ghi nhớ nguyên tắc này, chúng ta có thể suy ra ba nguyên tắc cơ bản để diễn giải
một hành tinh trong một nhà:
1. Khi một hành tinh được đặt trong một nhà, chức năng hoặc hoạt động được
đại diện bởi hành tinh đó tìm thấy khu vực biểu hiện tự nhiên nhất của nó trong
lĩnh vực kinh nghiệm được đề cập bởi nhà đó. Dấu hiệu trong đó hành tinh được
đặt cung cấp thêm thông tin về cách hoạt động này có thể được tiếp cận.
2. Điều ngược lại cũng đúng: khu vực của sự sống được chỉ định bởi nhà mà hành
tinh ở trong đó được đề cập và xử lý một cách tự nhiên nhất theo loại hoạt động
được đại diện bởi hành tinh đó.
3. Một hành tinh trong một nhà cũng cho thấy bản chất của nguyên tắc nguyên
mẫu mà chúng ta sinh ra đã mong đợi gặp phải thông qua lãnh vực của cuộc sống
hoặc khía cạnh của kinh nghiệm. Đó là loại năng lượng mà chúng ta có xu hướng
nhận thức hoặc gặp gỡ trong lĩnh vực đó. Đó là một hình ảnh tiên nghiệm của lãnh
vực cuộc sống tồn tại ngay từ khi sinh ra.
Hướng dẫn chung về diễn giải Các Dấu Hiệu Hoàng Đạo trong Các Nhà –

General Guidelines for Interpreting Signs in the Houses
Sign placements are slightly more complicated than planetary placements in
relationship to the houses. Firstly, there will always be a particular degree of a
certain sign on the cusp or beginning point of each house. In the example shown
in Figure 15 , 11 degrees of Cancer is on the cusp of the 1st house; 29 degrees of
Cancer on the cusp of the 2nd house; 20 degrees of Leo on the cusp of the 3rd house,
etc. We would then associate the principles of Cancer with what the 1st house
represents; the principle of Cancer will also influence the 2nd house (even though
only one degree of Cancer remains in the 2nd it is still associated with that house
because of its cuspal position there); the principles of Leo would operate in the 3rd
house, etc.
However, if we look closely, we will see that there is a variety of ways in which a
sign may appear in a house:

Vị trí của dấu hiệu hoàng đạo phức tạp hơn một chút so với vị trí hành tinh trong
mối quan hệ với các nhà. Thứ nhất, sẽ luôn có một độ cụ thể của một dấu hiệu nhất
định trên cửa hoặc điểm bắt đầu của mỗi nhà. Trong ví dụ hiển thị trong Hình 15,
11 độ của Cự Giải nằm trên cửa của nhà thứ 1; 29 độ Cự Giải trên cửa nhà thứ 2; 20
độ Leo trên cửa của nhà thứ 3, v.v. Sau đó, chúng ta sẽ liên kết các nguyên tắc của
Cự Giải với những gì nhà thứ 1 thể hiện; nguyên tắc của Cự Giải cũng sẽ ảnh hưởng
đến nhà thứ 2 (mặc dù chỉ còn một độ của Cự Giải còn lại trong nhà thứ 2 nhưng
nó vẫn được liên kết với nhà đó vì vị trí cửa nhà 2 ở đó); các nguyên tắc của Leo sẽ
hoạt động trong nhà thứ 3, v.v.
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng có nhiều cách mà một dấu
hiệu hoàng đạo có thể xuất hiện trong một nhà:

Fig. 15 Eliot, born 29 April 1953, 09:00 CET (-1), Florence, Italy (43N46, 11E15)
1. Some portion of a sign may be in a house even if it is not on the cusp of the house.
In the example chart, Cancer is on the cusp of the 2nd, but much of the sign of Leo
is there as well. Therefore, the 2nd house will be associated not only with a Cancer
influence but also with a Leo influence. Usually the influence of the sign on the
cusp is considered more important even if more of the next sign is present in that
house.

1. Một số phần của một dấu hiệu có thể ở trong một nhà ngay cả khi nó không nằm
trên cửa của nhà. Trong lá số ví dụ, Cự Giải ở trên cửa của nhà thứ 2, nhưng phần
lớn dấu hiệu Leo cũng ở đó. Do đó, nhà thứ 2 sẽ không chỉ liên quan đến ảnh hưởng
của Cự Giải mà còn với ảnh hưởng của Sư Tử. Thông thường, ảnh hưởng của dấu
hiệu trên cusp được coi là quan trọng hơn ngay cả khi có dấu hiệu tiếp theo xuất
hiện trong nhà đó.
2. If, as in the case of the Quadrant systems of house-division, the same sign falls
on two successive house cusps, then all of another sign will be intercepted in
another house. This means that a house begins with one sign on the cusp, has the
next sign intercepted or totally contained within the house, and has the following
sign completing the house. There are then three signs influencing an intercepted
house (again the sign on the cusp is usually the most important influence). In the
example chart, Cancer and Capricorn are both on the cusp of two houses (the 1st
and 2nd, and 7th and 8th respectively). Consequently we can look for other houses
with intercepted signs. In this case, the 5th house begins with 23 degrees of Libra
on the cusp, has all of Scorpio intercepted in it, and ends with the first few degrees
of Sagittarius. A similar situation exists with the opposite signs in the opposite
house, the 11th.

2. Nếu, như trong trường hợp hệ thống phân chia nhà Quadrant, cùng một dấu
hiệu ở trên hai cửa của hai nhà liên tiếp, toàn bộ một dấu hiệu khác sẽ bị chặn ở
trong một nhà khác. Điều này có nghĩa là một nhà bắt đầu bằng một dấu hiệu trên
cửa, có dấu hiệu tiếp theo bị chặn hoặc hoàn toàn được chứa trong nhà, và dấu hiệu
tiếp theo hoàn thành nhà đó. Khi đó, có ba dấu hiệu hoàng đạo ảnh hưởng đến
một nhà bị chặn (một lần nữa, dấu hiệu trên cửa nhà thường là ảnh hưởng quan
trọng nhất). Trong lá số ví dụ, Cự GiảiMa Kết đều ở trên cửa của hai nhà (lần lượt
thứ 1 và thứ 2, thứ 7 và thứ 8). Do đó, chúng ta có thể tìm kiếm những nhà khác có
dấu hiệu bị chặn. Trong trường hợp này, nhà thứ 5 bắt đầu với 23 độ Thiên Bình
trên cửa, có toàn bộ Hổ Cáp bị chặn trong đó, và kết thúc với một vài độ Nhân
đầu tiên. Một tình huống tương tự tồn tại với các dấu hiệu ngược lại ở nhà đối diện,
nhà 11.

The guidelines for interpreting a sign (or signs) in a house are similar to those for
interpreting a planet in a house, except that it should be remembered that the sign
on the cusp of the house is considered more important than other signs that might
be in that house:
1. The sign or signs in a house find their most natural area of expression in the field
of experience referred to by that house.
2. The sign or signs in a house indicate the types of experiences which allow the
native to best realize his or her potential in that field of life.
3. The sign or signs in a house also suggest what kind of archetypal energies the
person is predisposed to expect in that area of life.

Các hướng dẫn để giải thích một dấu hiệu (hoặc các dấu hiệu) hoàng đạo trong một
nhà tương tự như các hướng dẫn để giải thích một hành tinh trong một nhà, ngoại
trừ việc nên nhớ rằng dấu hiệu trên cửa của nhà được coi là quan trọng hơn các dấu
hiệu khác có thể có trong nhà đó:
1. Dấu hiệu hoặc các dấu hiệu hoàng đạo trong một nhà tìm thấy khu vực biểu
hiện tự nhiên nhất của chúng trong lĩnh vực kinh nghiệm được đề cập bởi nhà
đó.
2. Dấu hiệu hoặc các dấu hiệu trong một nhà cho biết các loại kinh nghiệm cho
phép người chủ lá số nhận ra tốt nhất tiềm năng của mình trong lĩnh vực của
cuộc sống.
3. Dấu hiệu hoặc các dấu hiệu hoàng đạo trong một nhà cũng cho thấy loại năng
lượng nguyên mẫu mà người đó có xu hướng mong đợi trong lãnh vực của cuộc
sống.
Chủ Quản của Nhà — House Rulerships

There is another factor to be considered in analysing the influence of planets and
signs in the houses. When a planet is located in a certain house there is a
connection between the affairs of that house and the house or houses in which the
sign(s) that the planet in question rules is placed. For instance, in the example
chart, Venus is in the 10th house; but because Venus is the ruler of both Libra and
Taurus, the 10th house Venus will have an influence on the houses in which Libra
and Taurus are found. In this case, Libra is associated with the 4th house (23
degrees of that sign is there) and the 5th house (the 23rd degree of Libra is on the
cusp). All of Taurus is intercepted in the 11th. So, Venus in the 10th house (career),
through its rulership of Libra and Taurus, will have bearing on the 4th house
(home), the 5th house (children) and the 11th house (groups). This man has
worked (10th) running groups (11th) in his own home (4th) geared to helping
parents relate better (Venus) to children (5th).
To sum up: a planet has an influence on
1. The house in which it is placed.
2. The house on whose cusp is found the sign that planet rules.
3. The house in which any number of degrees of the sign the planet rules is found
(even if the sign the planet rules is not on the cusp).
Generally, the weighting of the influence of the various factors can be taken in the
order given above.

Có một yếu tố khác cần xem xét trong việc phân tích ảnh hưởng của các hành tinh
và dấu hiệu hoàng đạo trong các nhà. Khi một hành tinh ở trong một nhà nhất
định, có mối liên hệ giữa các vấn đề của nhà đó và nhà (hoặc các nhà) mà hành tinh
đó cai quản. Chẳng hạn, trong lá số ví dụ ở trên, Sao Kimnhà thứ 10; nhưng vì sao
Kim là chủ tinh của cả Thiên BìnhKim Ngưu, nên sao Kim nhà thứ 10 sẽ có ảnh
hưởng đến những nhà nơi hai dấu hiệu hoàng đạo Thiên BìnhKim Ngưu được
tìm thấy. Trong trường hợp này, Thiên Bình được liên kết với nhà thứ 4 (23 độ của
dấu hiệu đó ở nhà 4) và nhà thứ 5 (cửa nhà 5 ở 23 độ của Thiên Bình). Toàn bộ Kim
Ngưu bị chặn trong nhà 11. Vì vậy, sao Kim trong nhà thứ 10 (sự nghiệp), thông
qua sự cai quản Thiên BìnhKim Ngưu, sẽ có ảnh hưởng lên nhà thứ 4 (gia đình),
nhà thứ 5 (trẻ em) và nhà thứ 11 (nhóm). Người đàn ông này đã làm việc (nhà 10)
điều hành các nhóm (nhà 11) tại nhà riêng của mình (nhà 4) nhằm giúp cha mẹ
quan hệ tốt hơn (sao Kim) với trẻ em (thứ 5).
Tóm lại: một hành tinh có ảnh hưởng đến
1. Nhà mà nó có mặt ở đó.
2. Nhà mà cửa của nó có dấu hiệu hoàng đạo được cai quản bởi hành tinh đó.
3. Nhà có sự hiện diện của dấu hiệu hoàng đạo được cai quản bởi hành tinh đó (ở
bất kỳ độ nào, ngay cả khi dấu hiệu hoàng đạo đó không nằm trên cửa).
Nói chung, trọng số ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau có thể được xem xét theo
thứ tự nêu trên.
Nhà trống – Empty Houses

Over and over again when teaching astrology to beginners I hear the question
‘What does it mean if a house is empty?’ Some students are very troubled by empty
or untenanted houses – that is, a house in which no planets are found. ‘My 5th
house is empty – does that mean I won’t have any children?’; ‘my 3rd house is
empty – does this mean I don’t have a mind?’
Because there are only ten planets to go around the twelve houses, invariably
certain houses will be untenanted. This does not mean that nothing is happening
in that area of life. Nor does it necessarily imply that the area of life in question is
unimportant.

Khi dạy chiêm tinh cho những người mới bắt đầu, tôi luôn nghe câu hỏi ‘Một nhà
trống rỗng có nghĩa như thế nào?’ Một số sinh viên rất bối rối bởi những nhà trống
rỗng hoặc không có hành tinh ở đó. ‘Nhà thứ 5 của tôi trống không – có phải điều
đó có nghĩa rằng tôi sẽ không có đứa con nào?’ Nhà thứ 3 của tôi trống rỗng – có
phải điều này có nghĩa là tôi không có trí tuệ?’
Bởi vì chỉ có mười hành tinh bố trí trong mười hai nhà, nên sẽ có những nhà nào đó
không có hành tinh. Điều này không có nghĩa là không có gì xảy ra trong lĩnh vực
đó của cuộc sống. Nó cũng không nhất thiết ngụ ý rằng lãnh vực của cuộc sống đó
là không quan trọng.

Strictly speaking it is incorrect to say that a house is empty. Even though there
may be no planets in that house, there is still a sign (or signs) placed there which
will influence that sphere of experience. Thus, the first step in interpreting what is
happening in an untenanted house is to relate the qualities of the sign or signs
found there to the area of life associated with the house in question. The second
step is to refer to the planet which rules the sign on the cusp of the ‘empty’ house.
What house is the ruling planet in? What sign is the ruling planet in? How is the
ruling planet aspected? In this way, we glean a great deal of information about the
house in question. The third step is to examine the planet which rules any other
signs found in that house (not just the sign on the cusp). Where is that planet by
house, sign and aspect?

Nói đúng ra khi nói rằng một nhà trống rỗng là không chính xác. Mặc dù có thể
không có các hành tinh trong nhà đó, nhưng vẫn có một dấu hiệu (hoặc nhiều dấu
hiệu) được đặt ở đó sẽ ảnh hưởng đến phạm vi kinh nghiệm đó. Vì vậy, bước đầu
tiên trong việc diễn giải những gì đang xảy ra trong một nhà không có hành tinh
là liên hệ các phẩm chất của dấu hiệu hoặc các dấu hiệu hoàng đạo được tìm thấy
ở đó với lãnh vực của cuộc sống liên quan đến nhà đang xem xét. Bước thứ hai là
xem xét đến hành tinh cai quản dấu hiệu ở trên cửa của nhà ‘trống rỗng’. Hành tinh
cai quản ở nhà nào, dấu hiệu nào? Chủ tinh đó có góc hợp với các hành tinh khác
như thế nào? Bằng cách này, chúng ta lượm lặt được rất nhiều thông tin về nhà
đang được đề cập đến. Bước thứ ba là kiểm tra hành tinh cai quản bất kỳ dấu hiệu
nào khác được tìm thấy trong nhà đó (không chỉ là dấu hiệu trên house cusp). Hành
tinh đó ở nhà nào, dấu hiệu nào và có góc hợp nào?

In the example chart, the 6th house is empty. Following the three steps outlined
above, much can be learned about that house. Sagittarius is on the cusp of the 6th
house: on one level, this could mean that Eliot should develop skills (6th) of a
Sagittarian nature – techniques for expanding or broadening the vision of other
people, for instance. The ruler of Sagittarius is Jupiter, which is placed in the 11th
house of groups. The group setting could then be an appropriate place to employ
his skills (ruler of the 6th in the 11th). Since Jupiter is in Taurus and conjunct Mars,
his temperament is suited to leading (Mars) the groups he might establish
(Taurus). But we mustn’t forget that Capricorn is also in the 6th house. Therefore,
Saturn’s position in the chart will exert an influence in relation to the 6th house as
well. Saturn is in Libra very close to the 4th/5th house cusp. Again, we have the
idea that the work (6th) might take place in the home (Saturn in the 4th ruling
Capricorn in the 6th). Saturn is so near to the 5th house cusp that it could also have
some bearing on that house. One of the associations with the 5th is that of
children, so we are back to a connection between work (6th) possibly being linked
to children in some way (Saturn near the 5th house cusp rules Capricorn in the
6th). We have previously arrived at the same interpretation through examining
Venus in the 10th and its influence (see page 109). Anything which is important
in the chart will usually manifest in a number of ways; this is sometimes called
‘the rule of three’.

Trong lá số ví dụ, nhà thứ 6 trống rỗng. Theo trình tự ba bước được nêu ở trên ta có
thể tìm hiểu nhiều điều về nhà đó. Nhân ở trên cửa của nhà thứ 6: ở một cấp độ,
điều này có thể có nghĩa là Eliot nên phát triển các kỹ năng (nhà thứ 6) có bản chất
Nhân – ví dụ như các kỹ thuật để mở rộng tầm nhìn của người khác. Chủ tinh
NhânSao Mộc, được đặt trong nhà thứ 11 chủ các nhóm. Khi đó thiết lập
nhóm có thể là một nơi thích hợp để sử dụng các kỹ năng của ông (chủ tinh của nhà
thứ 6 ở trong nhà 11). Vì sao Mộc nằm ở dấu hiệu hoàng đạo Kim Ngưu và đồng vị
sao Hỏa, tính khí ông phù hợp với việc lãnh đạo (sao Hỏa) các nhóm mà ông có thể
thành lập (Kim Ngưu). Nhưng chúng ta không thể quên rằng Ma Kết cũng ở nhà
thứ 6. Do đó, vị trí Sao Thổ trong lá số cũng sẽ gây ảnh hưởng trong mối quan hệ
với nhà thứ 6. Sao ThổThiên Bình rất gần với nhà cửa của nhà thứ 4/5. Một lần
nữa, chúng ta có ý tưởng rằng công việc (thứ 6) có thể diễn ra trong nhà (Sao Thổ
nhà thứ cai quản dấu hiệu Ma Kết 4 ở nhà thứ 6). Sao Thổ cũng ở gần cửa nhà thứ 5
đến nỗi nó cũng có thể có một số ảnh hưởng trên nhà đó. Một trong những điều liên
hệ với nhà thứ 5 là về trẻ em, vì vậy chúng ta quay lại mối liên hệ giữa công việc
(nhà thứ 6) có thể được liên kết với trẻ em theo một cách nào đó (Sao Thổ gần nhà
thứ 5 cai quản Ma Kếtnhà thứ 6). Trước đó chúng ta đã đi đến cùng một cách giải
thích thông qua việc xem xét sao Kimnhà thứ 10 và ảnh hưởng của nó (xem trang
109). Bất cứ điều gì quan trọng trong lá số thường sẽ biểu hiện theo một số cách;
điều này đôi khi được gọi là “quy luật của ba”.

Obviously, a house with many planets in it is very important, but we should not
overlook the significance of so-called empty houses. Should the planet ruling the
sign on the cusp of an empty house be the focal point for a particular chart shaping,
such as the handle to a bucket type chart or the leading planet of a locomotive
shaping, then the affairs of the house in question could figure prominently in the
native’s life. The empty house might also contain the missing element to a Tsquare and this would increase the relevance of that area of life in contributing to
the overall balance of the person’s psyche.

Rõ ràng, một nhà có nhiều hành tinh trong đó rất quan trọng, nhưng chúng ta
không nên bỏ qua ý nghĩa của cái gọi là nhà trống. Nếu chủ tinh của dấu hiệu trên
cửa của một nhà trống là tâm điểm của một dạng lá số cụ thể, chẳng hạn như tay
cầm cho lá số kiểu xô, hoặc hành tinh dẫn đầu của một hình dạng đầu máy, thì các
vấn đề của nhà đang được đề cập có thể nổi bật trong cuộc sống của người chủ lá
số. Nhà trống cũng có thể chứa yếu tố còn thiếu với lá số hình vuông chữ T và điều
này sẽ làm tăng sự liên quan của lãnh vực cuộc sống đó trong việc đóng góp vào sự
cân bằng chung của tâm lý người đó.
Nhà bị đóng gói – Packed Houses

A house may contain more than one planet. Indeed, some houses are ‘packed’ – that
is, three, four or even more planets may fall within one house. In this case, each of
the principles, urges, drives or motivations suggested by the different planets will
be expressing itself through that area of life. Obviously, should the nature of the
planets be contradictory, such as the expansive effects of Jupiter versus the
cautious and limiting effects of Saturn, then that sphere of life will be met with
greater tension and complexity. Any house containing two or more planets will
assume extra significance in the person’s life-plan or purpose.

Một nhà có thể chứa nhiều hơn một hành tinh. Thật vậy, một số nhà được đóng gói,
nghĩa là có ba, bốn hoặc thậm chí nhiều hành tinh hơn nằm trong đó. Trong trường
hợp này, mỗi nguyên tắc, sự thúc giục, động lực được đề xuất bởi các hành tinh
khác nhau sẽ được thể hiện qua lãnh vực của cuộc sống đó. Rõ ràng, nếu bản chất
của các hành tinh trái ngược nhau, chẳng hạn như các tác động mở rộng của Sao
Mộc so với các tác động thận trọng và hạn chế của Sao Thổ, thì phạm vi cuộc sống
sẽ gặp phải căng thẳng và phức tạp hơn. Bất kỳ nhà nào chứa hai hoặc nhiều hành
tinh hơn sẽ có ý nghĩa đặc biệt trong kế hoạch cuộc sống hoặc mục đích sống của
con người.

Planets Near House Cusps
Generally, if a planet falls a few degrees before the end of a house and therefore
close to the cusp of the next house, its effect may be felt in both spheres – in its own
house as well as in the house which it is near. The orb of influence can even be
slightly increased to roughly five degrees, providing that the sign the planet is in
is the same sign as the next house cusp.

Nói chung, nếu một hành tinh nằm ở vài độ trước khi kết thúc một nhà và do đó
gần với cửa của nhà tiếp theo, hiệu ứng của nó có thể được cảm nhận ở cả hai khu
vực – trong nhà của chính nó cũng như trong nhà gần đó. Độ lệch ảnh hưởng thậm
chí có thể tăng lên một chút đến khoảng năm độ, với điều kiện là dấu hiệu mà hành
tinh đang ở là cùng dấu hiệu với nhà kế tiếp.

The sphere of experience associated with one house naturally leads to the next. A
planet at the end of a house, and just prior to the cusp of the next, may bring the
junction point of these two areas of life into focus. For instance, if Venus is near
the end of the 6th house and close to the 7th house cusp, a person may fall in love
with and marry (7th) someone he or she has met through a working situation
(6th). If Mercury is between the 10th and 11th houses, professional connections
(10th) may develop into friendships or contacts with new groups of people (11th).

Lĩnh vực kinh nghiệm liên quan đến một nhà tự nhiên dẫn đến nhà kế. Một hành
tinh ở cuối một nhà, và ngay trước cửa của nhà tiếp theo, có thể khiến sự giao tiếp
của hai khu vực của cuộc sống trở nên tập trung. Chẳng hạn, nếu sao Kim ở gần
cuối nhà thứ 6 và gần cửa nhà thứ 7, một người có thể yêu và kết hôn (nhà thứ 7)
với người mà anh ta hoặc cô ta đã gặp trong tình huống công việc (nhà thứ 6). Nếu
Sao Thủy nằm giữa nhà thứ 10 và 11, các kết nối chuyên nghiệp (nhà thứ 10) có
thể phát triển thành mối quan hệ bạn bè hoặc liên hệ với các nhóm người mới (nhà
thứ 11).

The astrologer is so often working with an estimated or approximate birth-time
that a planet near the cusp of a house might actually belong to the adjacent house.
Likewise, given the kinds of discrepancies which occur depending on which house
system is used, a planet near a cusp in one system may fall in the neighbouring
house in another method. For these reasons, some astrologers believe that a planet
placed in the middle of a house has the most reliable influence because it is so
firmly established in that domain.

Nhà chiêm tinh thường làm việc với thời gian sinh ước tính hoặc gần đúng đến mức
một hành tinh gần cửa nhà có thể thực sự thuộc về nhà bên cạnh. Tương tự như
vậy, với các loại khác biệt xảy ra tùy thuộc vào hệ thống nhà nào được sử dụng, một
hành tinh gần cửa trong một hệ thống có thể rơi vào nhà bên cạnh theo phương
pháp khác. Vì những lý do này, một số nhà chiêm tinh tin rằng một hành tinh được
đặt ở giữa một nhà có ảnh hưởng đáng tin cậy nhất vì nó được thiết lập vững chắc
trong lãnh vực đó.
Sự bất bình đẳng của các nhà—Inequality of Houses

In Quadrant systems of house-division, unless the birth is on the equator, the
houses will be of unequal size (especially for births in extreme northern or
southern latitudes). Some houses may span sixty degrees while others may be as
small as fifteen degrees or less. Many students enquire whether bigger houses are
more important. To some extent, this is probably true since transits (the ongoing
daily motion of the planets) will spend a longer time in the larger houses than the
smaller houses, thereby stirring the affairs of that area of life for a more extended
duration. However, a small house, especially if there are two or more planets in it,
can still have an important influence. Even untenanted, the ruler of the sign on the
cusp of a small house might be significant by placement or aspect and in that way
emphasize the affairs of the house in question. Also, though planets transiting
through the smaller houses spend less time there, they often ‘do their job’ in a more
condensed and concentrated way, driving lessons home harder and faster.

Trong các hệ thống phân chia nhà Quadrant, trừ khi sinh ở xích đạo, các nhà sẽ có
kích thước không đồng đều (đặc biệt đối với các ca sinh ở các vĩ độ cực bắc hoặc cực
nam). Một số nhà có thể kéo dài sáu mươi độ trong khi những nhà khác có thể nhỏ
đến mười lăm độ hoặc ít hơn. Nhiều sinh viên hỏi liệu nhà lớn hơn có quan trọng
hơn không. Ở một mức độ nào đó, điều này có lẽ đúng vì quá cảnh (chuyển động
hàng ngày của các hành tinh) sẽ dành thời gian dài hơn trong những nhà lớn hơn
so với những nhà nhỏ hơn, do đó khuấy động các vấn đề của khu vực cuộc sống đó
trong thời gian dài hơn. Tuy nhiên, một nhà nhỏ, đặc biệt nếu có hai hoặc nhiều
hành tinh trong đó, vẫn có thể có ảnh hưởng quan trọng. Ngay cả khi không có
hành tinh trong đó, chủ tinh của dấu hiệu trên cửa của một nhà nhỏ có thể có ý
nghĩa tuỳ theo vị trí hoặc góc hợp và theo cách đó nhấn mạnh các vấn đề của nhà
trong câu hỏi. Ngoài ra, mặc dù các hành tinh đi qua các nhà nhỏ hơn dành ít thời
gian hơn ở đó, nhưng chúng thường ‘thực hiện công việc của mình’ theo cách cô
đọng và tập trung hơn, điều khiển các bài học của nhà đó cứng rắn và nhanh chóng
hơn.
Dấu hiệu bị chặn—Intercepted Signs

Students also ask whether signs which are intercepted (not on a house cusp but
surrounded entirely by a house) are less important than signs on the cusp of the
house. The sign on the cusp is generally more important, but the intercepted sign
will definitely be felt in relation to the affairs of that house. The effects of planets
in intercepted signs appear to be as strong as planets in the other signs. Some
astrologers claim that when a sign is intercepted its nature is introverted or
directed inward. I have not found this particularly to be the case.
Bearing these general guidelines in mind, we will now examine more specifically
the implications of the different signs and planets in the twelve houses, as well as
a discussion of the Moon’s nodes and the recently discovered Chiron in this
respect. In the main, in order to save space and avoid repetition, except for the
Ascendant/Descendant axis (or 1st and 7th house cusps), I have not examined
separately the meaning of each sign in a house. However, the reader should
remember that the significance of a particular planet in a house is similar to the
influence that the sign it rules has on a house. For instance, if you have Cancer on
the cusp of the 8th (or contained in the 8th) then you can read the section headed
the Moon in the 8th to learn more about the way in which Cancer in the 8th might
operate. Or if you have Pisces on the cusp of the 5th, then you can refer to the
section headed Neptune in the 5th to glean how the closely related principle of
Pisces might evince itself in that house.

Học viên cũng hỏi liệu các dấu hiệu bị chặn (không phải trên một cửa nhà mà được
bao quanh hoàn toàn bởi một nhà) có quan trọng hơn các dấu hiệu trên cửa của
nhà. Dấu hiệu trên cusp nói chung quan trọng hơn, nhưng dấu hiệu bị chặn chắc
chắn sẽ được cảm nhận liên quan đến các vấn đề của nhà đó. Tác động của các hành
tinh trong các dấu hiệu bị chặn dường như mạnh như các hành tinh trong các dấu
hiệu khác. Một số nhà chiêm tinh cho rằng khi một dấu hiệu bị chặn, bản chất của
nó là hướng nội hoặc hướng vào trong. Tôi đã không tìm thấy điều này đặc biệt
trong trường hợp nào.

Ghi nhớ những hướng dẫn chung này, bây giờ chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về ý
nghĩa của các dấu hiệu và hành tinh khác nhau trong mười hai nhà, cũng như một
thảo luận về các Nút Mặt trăng và Chiron mới được phát hiện gần đây về phương
diện này. Trong phần chính, để tiết kiệm không gian và tránh sự lặp lại, ngoại trừ
trục Điểm Mọc / Điểm Lặn (hoặc cửa nhà thứ 1 và thứ 7), tôi chưa xem xét riêng ý
nghĩa của từng dấu hiệu trong một nhà. Tuy nhiên, người đọc nên nhớ rằng tầm
quan trọng của một hành tinh cụ thể trong một nhà tương tự như ảnh hưởng của
dấu hiệu mà nó cai quản đối với một nhà. Chẳng hạn, nếu bạn có Cự Giải trên cửa
thứ 8 (hoặc chứa trong nhà thứ 8) thì bạn có thể đọc phần hướng về Mặt trăng trong
phần 8 để tìm hiểu thêm về cách thức mà Cự Giải trong nhà thứ 8thể hoạt động.
Hoặc nếu bạn có Song Ngư trên cửa thứ 5, thì bạn có thể tham khảo phần Sao Hải
Vương trong nhà thứ 5 để biết làm thế nào nguyên tắc liên quan chặt chẽ của Song
Ngư có thể thể hiện trong nhà đó.

Also, there is the problem that any aspects to a planet in a house from other planets
in other houses will modify the effect of the planet and house combination in
question. For instance, if Venus is in the 7th we might expect an ease and
receptivity in partnership. But if Saturn in the 4th, let’s say, should square the 7th
house Venus, then the expression of Venus will be tempered by the nature of
Saturn. Occasionally, I make a distinction between a well-aspected planet in a
house or an adversely aspected planet in a house. Please keep in mind that it is not
necessarily the case that a difficultly aspected planet will manifest in a negative
way, although it may require more effort or struggle to use the adversely aspected
planet constructively. For further insight into how stressful aspects can be used
productively, the reader is referred to Christina Rose’s excellent book Astrological
Counselling (Aquarian Press, Wellingborough, 1982). As she articulately reminds
us:

Ngoài ra, có một vấn đề là bất kỳ góc hợp nào đối với một hành tinh trong một nhà
từ các hành tinh khác trong các nhà khác sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của sự kết hợp
giữa hành tinh và nhà đang xem xét. Chẳng hạn, nếu sao Kimnhà thứ 7, chúng
ta có thể mong đợi sự dễ dàng và khả năng tiếp thu trong quan hệ đối tác. Nhưng
ví dụ nếu sao Thổnhà thứ 4 và vuông góc Sao Kim nhà thứ 7, thì biểu hiện của
sao Kim sẽ được tiết chế bởi bản chất của sao Thổ. Thỉnh thoảng, tôi phân biệt giữa
một hành tinh được góc hợp tốt trong một nhà hoặc một hành tinh bị góc hợp xấu
trong một nhà. Xin lưu ý rằng không nhất thiết một hành tinh bị góc hợp xấu sẽ
biểu hiện theo cách tiêu cực, mặc dù nó có thể đòi hỏi nhiều nỗ lực hoặc đấu tranh
hơn để sử dụng hành tinh bị góc hợp xấu một cách xây dựng. Để hiểu rõ hơn về
cách các góc hợp căng thẳng có thể được sử dụng một cách hiệu quả, người đọc
được tham khảo cuốn sách tuyệt vời Tư vấn chiêm tinh học của Christina Rose
(Aquian Press, Wellingborough, 1982). Như bà nhắc nhở chúng ta rõ ràng:

Behind every aspect (as with everything in the birth chart) stands the
individual himself. His outlooks, philosophies, conditioning and experience
so far in his life will all bear upon the way the aspect functions; it is he who
lives it, or is seeking to live it, and his actual experience may not read exactly
like a textbook interpretation. (page 87)

Đứng đằng sau mọi góc hợp (như với tất cả mọi thứ trong lá số sinh) là bản thân
nhân. Những quan điểm, triết lý, điều kiện và kinh nghiệm của anh ấy cho đến
nay trong cuộc đời anh ấy sẽ đều tuân theo cách thức hoạt động của góc hợp;
chính anh ta là người sống nó, hoặc đang tìm cách sống nó, và kinh nghiệm thực
sự của anh ta có thể không chính xác như một cách giải thích trong sách giáo
khoa. (trang 87)

Huấn Thị Của Chân Sư Với Đệ Tử

HUẤN THỊ ĐẦU TIÊN
CỦA CHÂN SƯ DK CHO CÁC ĐỆ TỬ CỦA NGÀI
(Nguồn Minhtrietmoi đăng trên Facebook: Huấn thị đầu tiên Chân Sư DK – Sách: Các Huấn thị của Chân Sư)

Xin gởi các bạn Huấn Thị đầu tiên của đức DK gởi cho các đệ tử của Ngài khi Ngài bắt đầu việc huấn luyện nhóm trên 40 đệ tử cách nay gần 100 năm. Chúng ta cùng đọc lại và cảm nhận những lời dạy quan trọng của Ngài cho một người đã quyết tâm bước vào con đường Đạo chông gai. Các đệ tử của Ngài đều được trên 01 lần điểm đạo, chỉ trừ duy nhất một người. Đọc và thử cảm nhận như thể (as if) chúng ta là những đệ tử đó, chúng ta sẽ cảm giác và và hành động ra sao? Với tôi, những giáo huấn trong Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới luôn là vô giá… Sau đây là một vài trích dẫn từ bức thư:

Tôi, Người Anh cả Tây Tạng của chư môn đệ, tin tưởng rằng mỗi đệ tử của tôi phải có ít nhất một đức tính căn bản này là lòng nhiệt thành kiên cố không gì lay chuyển…

Không có sự vâng lời tuyệt đối như thường được dạy trong các Đạo viện xưa nay. Thời cổ, ở Phương Đông, vị Đạo sư đòi hỏi người đệ tử phải có sự vâng lời tuyệt đối, điều này đương nhiên đặt trách nhiệm nơi vị Đạo sư. Vị ấy phải hứng nặng trên vai mình toàn thể vận mạng hay nghiệp quả của người đệ tử. Điều kiện ấy ngày nay không còn áp dụng…

Tôi sẽ nói thẳng… Tôi sẽ nói bằng lời ẩn dụ và biểu tượng những gì cần được truyền dạy, và những đệ tử nào có nội nhĩ đã khai mở và lòng khiêm tốn thật sự sẽ ghi nhận và hiểu rõ. Nếu họ chưa hiểu được ngay thì thời gian sẽ tác động một cách âm thầm, và rốt cuộc sự giác ngộ cũng sẽ đến. Bởi vậy tôi không đòi hỏi một sự vâng lời mù quáng. Tuy nhiên nếu những lời răn đe đây được chấp nhận, và các môn đệ tự ý muốn theo những lời giáo huấn của tôi do bởi ý chí tự do của chính mình, thì phải tuân theo một cách chính xác…

Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh về một điểm khi chúng ta xem xét mỗi cá nhân trong nhóm và mối tương quan của y trong tập thể. Hãy cẩn thận kiểm soát tư tưởng của mình đối với bạn đồng môn, lập tức diệt trừ tất cả mọi sự nghi ngờ, chỉ trích và tìm cách đoàn kết chặt chẽ với nhau trong ánh sáng của Tình thương

Tình thương không phải là một tình cảm hay một cảm xúc, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. Tình thương là sự phát động một sức mạnh nó làm vận chuyển bầu thế giới, nó đưa đến sự hội, sự kết hợp (intergration) sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thúc đẩy Thượng Đế hành động, sáng tạo. Tình thương là một vật khó vun trồng, vì tính chất con người vốn ích kỷ…

Tất cả những đệ tử trong một Đạo Viện cần phải Thiền Định, hiểu theo ý nghĩa Huyền Môn chớ không theo ý nghĩa thần bí. Trong mọi công phu thiền định mà chư môn đệ đang thực hành ngay trong hiện tại hoặc trong tương lai, mục đích của chư môn đệ là đạt tới điểm cao nhất càng sớm càng hay, sau khi vượt qua mau chóng các giai đoạn tập trung, định trí và nhập thiền. Sau khi đạt tới điểm đó, chư môn đệ phải cố gắng giữ lấy nó, và như vậy hãy tập tác động như một linh hồn trên cõi riêng của nó, định thần nơi cõi giới năng lượng trong đó tất cả các bậc đã điểm đạo đều hoạt động, và có ngày chư môn đệ cũng phải đạt tới trong kiếp này hay một kiếp khác.

***************************************************************************************************

Phần I 

Hỡi chư môn đệ, Có điều quan trọng là chư môn đệ cần nhận biết rằng ngày nay có một cái gì mới đang diễn ra. Đó là việc xuất hiện của một cõi giới mới trong thiên nhiên , Cõi giới Thứ Năm; đây là Cõi giới của Thượng Đế trên thế gian, hay Cõi giới Linh hồn. Cõi giới ấy đang đột khởi trên địa cầu và sẽ gồm những ai có ý thức tập thể và có thể hoạt động từng nhóm hay tập đoàn. Điều này có thể thực hiện được bởi vì những người ấy sẽ đạt tới một trạng thái toàn thiện do tự lực công phu (dẫu rằng hãy còn tính chất tương đối) và sẽ đồng hóa với những hoạt động tâm thức phát triển tập thể. Ngoài ra, đó cũng bởi vì họ đã mở rộng tình thương đối với đồng loại, cũng như họ chỉ biết thương chính mình trong thời quá khứ. Chư môn đệ hãy suy ngẫm rõ ràng về điều này, và nếu có thể hãy thấu triệt ý nghĩa của câu cuối này.

It is of importance that you realise that today something new is happening. There is the emergence of a new kingdom in nature, the fifth kingdom; this is the Kingdom of God on earth or the kingdom of souls. It is precipitating on earth and will be composed of those who are becoming group-conscious and who can work in group formation. This will be possible, because these people will have achieved a self-initiated perfection (even if relative in nature) and will be identified with certain group expansions of consciousness. It will also be because they have arrived at love of their fellowmen, just as they have loved themselves in the past. Think on this with clarity, my brothers, and grasp, if you can, the full significance of this last sentence.

Công việc của họ phần lớn sẽ là đúc kết và hiệu năng hóa chương trình của hai Đấng sứ giả cao cả của Thượng Đế là Đức Phật và Đức Christ. Như chư môn đệ đã biết, một trong hai Đấng ấy đã đem ánh sáng giác ngộ cho thế gian và thể hiện Nguyên lý Minh Triết, còn Đấng thứ hai đem Tình Thương cho nhân loại và thể hiện nơi chính bản thân Ngài một định luật lớn của vũ trụ, đó là định luật của tình thương. Bằng cách nào ta có thể làm cho công trình của các Ngài được trở nên hữu hiệu. Phương thức này noi theo 3 đường lối sau đây:

Their work will largely be to summarise and make effective the work of those two great Sons of God, the Buddha and the Christ. As you know, One of Them brought illumination to the world and embodied the principle of wisdom, and the Other brought love to the world and embodied in Himself a great cosmic principle—the principle of love. How can the effectiveness of Their work be brought about? The process will follow three lines:

1. Sự cố gắng của bản thân của người đệ tử, áp dụng kỹ thuật buông xả, vô dục và phân biện mà PHẬT dạy.

2. Việc điểm đạo tập thể, có thể thực hiện được bằng sự cố gắng tự lực công phu của các đệ tử theo như lời răn của Đức Christ, và đưa việc đặt phàm ngã và đơn vị cá nhân hoàn toàn lệ thuộc vào việc công ích và quyền lợi tập thể.

3. Sự cố gắng tập thể, thực hiện như tập thể nhóm nhằm ban rải tình thương cho tất cả muôn loài và tìm hiểu ý nghĩa thật sự của tình thương tập thể và công tác nhóm là những nét đặc thù trong cơ tiến hóa của nhân loại trong thế hệ Bảo bình (Aquarius)

1. Individual effort, made by the individual disciple, using the technique of detachment, of dispassion and of discrimination which the Buddha taught. 2. Group initiation, made possible by the self-initiated effort of individual disciples, following out the injunctions of the Christ and leading to a complete subordination of the personality and of the unit to group interest and group good. [Page 4] 3. Group endeavour, carried forward as a group, to love all beings and to apprehend and understand the true significance of the Aquarian technique of group love and work.

Tôi nghĩ rằng một sự hòa hợp tâm trí của chư môn đệ để suy gẫm về công trình của đức PHẬT và Đức Christthể đem lại kết quả hữu ích và đem đến cho tất cả môn đệ một ý niệm về hai pháp môn tu luyện của các Ngài. Một để chuẩn bị bước vào con đường đệ tử chánh thức và một để chuẩn bị bước vào cửa điểm đạo, cả hai pháp môn này đều có liên hệ hỗ tương và nối tiếp theo nhau. Sự tổng hợp chương trình của các Ngài là một điều mà chúng tôi nhận thấy rõ ràng, vì chúng tôi làm việc với một tầm nhãn quang bao quát hơn và với một quan niệm ít gò bó hơn chư môn đệ hiện nay. Bởi vậy, tôi chia các đệ tử của tôi thành từng nhóm để cho họ có thể làm việc trên những khía cạnh khác nhau của Thiên Cơ và tôi cũng đặt nền tảng cho công tác tập thể, nó sẽ giúp đỡ rất nhiều cho mọi người, và trên mọi sự, nó cũng sẽ thúc đẩy đại sự trong kỷ nguyên mới.

I have felt that a linking up of your minds in connection with the work of the Buddha and of the Christ might serve a useful purpose and give you all a glimpse and an indication of Their two systems of unfoldment—one preparatory to accepted discipleship and the other to initiation—which would be sequential and inter-related. The synthesis of Their work is easily seen by us who work with a fuller vision and a less impeded outlook than is as yet possible to you. I am, therefore, dividing my disciples into groups so that they may work on different aspects of the Plan, and also laying the ground for group work which will greatly help the individual but which will also—above everything else—forward the work of the New Age.

Bởi vậy tôi có ý định đi sâu vào chi tiết hơn khi nói về những nhóm này. Thời giờ của tôi rất giới hạn và tôi sẽ phải đưa nhiều tài liệu vào những huấn từ này vào trong những lời huấn giáo cá nhân mà tôi có thể ban cho các đệ tử, có lẽ từng kỳ hạn lâu dài. Trên căn bản, tôi không viết riêng cho một môn đệ nào, mà là để đặt nền tảng cho việc làm công tác tập thể trên thế gian trong những năm tới. Những gì tôi nói đây cần phải được xem xét cẩn thận, vì chữ viết có thể chứa đựng nhiều ý nghĩa, mà chỉ cảm nhận được bằng trực giác—đã thức tỉnh hay chưa—của người đạo sinh.

It is, therefore, my intention to write a little in detail in connection with these groups. My time is very limited and I shall have to put a great deal of information into these talks and into any individual instructions which I may be led to give (probably at widely separated intervals) to my disciples. I am not basically writing for any of you at all but in order to lay the foundation for the group work to be done in the world during the coming years. What I say should be read with care, for the written word may contain several meanings and these can be sensed, according to the intuition—awakened or otherwise—of the aspirant.

Tôi, Người Anh cả Tây Tạng của chư môn đệ, tin tưởng rằng mỗi đệ tử của tôi phải có ít nhất một đức tính căn bản này là lòng nhiệt thành kiên cố không gì lay chuyển. Mỗi người trong chư môn đệ bắt đầu công phu hành đạo với ít nhiều đức tính căn bản. Mỗi người đang bắt đầu công phu tu luyện để bước vào cửa điểm đạo với ít nhiều khuyết điểm, nó tác động như những chướng ngại. Mỗi môn đệ đã được thừa nhận nhờ bởi ánh sáng và những tiềm năng của mình. Với những vốn liếng tinh thần đó, chúng ta phải cố gắng đến mức tối đa. Bởi vậy các môn đệ hãy ghi nhận vấn đề khó khăn của các Đấng Cao Cả đang dìu dắt sự tiến hóa của nhân loại và đang tìm kiếm những người có thể trợ giúp trong công việc của các Ngài.

I, your Tibetan Brother, am supposing upon the part of each of my disciples, one basic essential at least and that is a persevering earnestness which nothing will deter. Each of you starts upon this work with certain fundamental characteristics; each of you is beginning this definite enterprise of training for initiation with certain defects which act as deterrents and as handicaps; each of you has been recognised by his light and for his potentialities and with these we must perforce do the best we can. Note, therefore, the difficult problem confronting Those Who are guiding world evolution and looking for those who can aid in Their work.

Tôi sẽ chỉ dẫn chư môn đệ. Các môn đệ có thụ hưởng được ích lợi nào không do sự giáo huấn này, hoàn toàn là do chư môn đệ, đó là điều mà người đệ tử trong kỷ nguyên mới cần phải biết. Không có sự vâng lời tuyệt đối như thường được dạy trong các Đạo viện xưa nay. [Page 5]

I will teach you. Whether or not you profit by the teaching is entirely your own affair; that is something that the disciples of the New Age need to learn. There is no such thing as occult obedience as usually taught by the current occult schools.

Thời cổ, ở Phương Đông, vị Đạo sư đòi hỏi người đệ tử phải có sự vâng lời tuyệt đối, điều này đương nhiên đặt trách nhiệm nơi vị Đạo sư. Vị ấy phải hứng nặng trên vai mình toàn thể vận mạng hay nghiệp quả của người đệ tử. Điều kiện ấy ngày nay không còn áp dụng. Ngày nay con người đã mở mang trí khôn đến mức không còn cần phải đặt ra một điều kiện như thế nữa.

In the olden days in the East, the Master exacted from His disciple that implicit obedience which actually made the Master responsible and placed upon His shoulders the destiny or the karma of the disciple. That condition no longer holds good. The intellectual principle in the individual is now too much developed to warrant this type of expectancy. Therefore, this condition no longer holds good.

Trong kỷ nguyên sắp tới đây, vị Chân Sư chỉ trách nhiệm đưa đến cơ hội tốt cho đệ tử và truyền giảng chân lý một cách chính xác thế thôi. Trong thời đại mới con người đã được hiểu biết sáng suốt hơn, vị đạo sư không còn khoác lấy một tư thế độc tôn như thời xưa, và tôi cũng không làm như vậy. Tôi sẽ nói thẳng. Tôi biết rõ các đệ tử của tôi vì không một đệ tử nào được nhập vào một đạo viện mà không được vị đạo sư xem xét từ trước một cách tỉ mỉ. Tôi sẽ nói bằng lời ẩn dụ và biểu tượng những gì cần được truyền dạy, và những đệ tử nào có nội nhĩ đã khai mở và lòng khiêm tốn thật sự sẽ ghi nhận và hiểu rõ. Nếu họ chưa hiểu được ngay thì thời gian sẽ tác động một cách âm thầm, và rốt cuộc sự giác ngộ cũng sẽ đến. Bởi vậy tôi không đòi hỏi một sự vâng lời mù quáng. Tuy nhiên nếu những lời răn đe đây được chấp nhận, và các môn đệ tự ý muốn theo những lời giáo huấn của tôi do bởi ý chí tự do của chính mình, thì phải tuân theo một cách chính xác. Một điều nữa là không nên lúc nào cũng trông đợi kết quả và mong chờ những hiện tượng nhiệm mầu là các điều chướng ngại rất lớn nó vẫn thường ngăn chận sự tiến bộ của nhiều đệ tử có triển vọng.

In the coming New Age, the Master is responsible for the offering of opportunity and for the right enunciation of the truth but for no more than that. In these more enlightened days, no such position is assumed by the teacher as in the past, and I do not assume it. I shall with frankness speak. I know my disciples, for no disciple is admitted into an Ashram without deep consideration on the part of the teacher. I shall convey by hint and symbol that which should be apprehended and it will be noted and understood by those among my disciples who have the opened, inner ear and true humility of heart. If it is not recognised, time will pursue its onward course and revelation will ultimately come.  I exact, therefore, no blind obedience. But, however, if advice and suggestion are accepted and you choose—of your own free will—to follow my instructions, those instructions must be followed accurately. Also, there must be none of that constant looking for results and for phenomena which has deterred the course and the progress of many would-be disciples.

Đây cũng là một cuộc thí nghiệm đối với tôi, vì những nhân viên có cấp đẳng trong Thánh đoàn như chúng tôi đương nhiên phải thay đổi các đường lối cũ và tùy nghi áp dụng những phương pháp xưa vào thời đại mới cho thích hợp với trào lưu tiến hóa. Nhiều đệ tử và đạo sinh đã chịu thử thách đó, và đã mệt mỏi, cần phải trải qua những cuộc thí nghiệm trong đó có việc áp dụng những quy luật để theo một phương pháp tân tiến. Các đệ tử của thời cổ vốn là sản phẩm của những thời đại thanh bình. Trí lực của họ chưa phát triển mạnh, cũng chưa bị nhuộm màu bởi những trào lưu tư tưởng phong phú như ngày nay.

This is also for me an experiment, for those of us who are members of some degree of the Hierarchy are necessarily changing the old ways and adapting the old methods to the newer circumstances and to the advance of evolution. Many tried disciples and aspirants (should I have said “tired,” brother of mine, for I surmise that both words are true?) are to be subjected to experiments which will involve the application of the ancient rules in a modern way. Disciples in the olden days were the product of more peaceful times. The “chitta” (or mind-stuff as Patanjali calls it in his famous Book of Rules) was neither so highly developed nor was it tinctured by so [Page 6] much thought or potentially so illumined.

Thời nay kiến thức được phổ biến sâu rộng và nhiều người đã tự lực suy tư để tìm chân lý. Cái đối tượng để Chân Sư hướng dẫn trên đường đạo, và loài người cần khai triển tâm linh để được đưa đến sự giác ngộ, ngày nay có một phẩm chất và trình độ cao hơn. Việc thay đổi phương pháp và áp dụng kỹ thuật mới về công tác tập thể cần phải được thực hiện giữa sự ồn ào náo nhiệt của nền văn minh Tây phương. Điều này áp đặt cho tất cả những người được chọn để tham dự vào công việc này, một sự cố gắng vược bực, nhưng nếu họ có thể tiếp tục và đi đến thành công, thì họ được trui rèn đến một trình độ khả năng tinh vi hơn.

Today, knowledge is widespread and many, many people are already thinking for themselves. The material for discipleship with which the Masters have to deal and the type of person which has to be developed and led on towards illumination is of a higher quality and grade, if I may employ so inadequate a term. The experiment of changing methods and of implementing the new technique of group work has to be carried out, likewise, in the midst of the stress and strain of Western civilisation. This imposes on all chosen to participate in this work an undue effort, but if continuance is found possible and success ensues, it tempers the material to a finer degree of power.

Như tôi đã nói, những chốn phồn hoa nào động của Phương Tây, chính là những vùng rừng sâu, núi thẳm của Phương Đông. Đó là cái bối cảnh để tập cho ta tìm thấy sự bình an giữa nơi náo động, sơ đắc được sức mạnh trong cơn mệt mỏi, trung kiên bền chí khi thể chất suy nhược và thông cảm hiểu biết giữa sự cạnh tranh ồ ạt của Đời sống Phương Tây. Bởi vậy, sự tiến bộ vẫn được thực hiện dù trong những hoàn cảnh trái ngang. Đối với những đệ tử như hàng môn đệ mà tôi sẽ hướng dẫn, không có việc rút lui ra khỏi cuộc đời thế tục. Không cần phải có điều kiện yên tĩnh và bằng an của thể chất để thúc động đến linh hồn và để thực hành công phu tu luyện như trong cơn im lặng, yên nghỉ của trạng thái xuất thần đại định mà Ấn Giáo gọi là Samadhi, tức là trạng thái hoàn toàn tách rời khỏi mọi trần duyên ngoại cảnh. Công phu hành đạo phải diễn tiến trong cơn náo động. Sự định tâm phải được giữa lúc tranh đấu ào ạt. Sự minh triết phải sở đắc được giữa cơn tâm trí giao động và công việc hợp tác với Thánh đoàn về phương diện bí ẩn nội tàng phải diễn tiến giữa cơn xuẩn động cuồng loạn giữa nếp sinh hoạt tân thời ở các thành phố lớn. Đó là vấn đề khó khăn của chư môn đệ và cũng là vấn đề khó khăn của tôi trong việc huấn luyện trợ giúp các đệ tử.

As has been said, the jungles of the Occident are of a different kind to those within the Eastern zone. They call for peace in turmoil; for power in fatigue; for persistence in spite of bad health; for understanding in spite of the clamour of Western life. Progress is, therefore, made in spite of, and not because of, existing conditions. For disciples, such as those I am now going to attempt to teach, there is no retiring from the world. There is no condition of physical peace and of quiet wherein the soul may be invoked and in which work—potent in results—may be achieved in the calm of silence and the rest of what the Hindu calls samadhi – complete detachment from the calls of the body and the emotions. The work has to go forward in clamour. The point of peace must be found in the midst of riot. Wisdom must be attained in the very midst of intellectual turmoil and the work of cooperation with the Hierarchy on the inner side of life must proceed amidst the devastating racket of modern life in the great cities. Such is your problem and such is my problem as I seek to aid you.

Đối với tôi, còn vấn đề phung phí quá nhiều năng lực khi tôi cố gắng tiếp xúc với từng đệ tử riêng biệt và khảo sát từng người trong từng kỳ hạn. Trong kế hoạch trường kỳ, tôi còn có công việc đọc tư tưởng, xem xét mức tiến bộ và tăng cường sinh khí cho hào quang của chư môn đệ. Điều này từ trước đến nay không phải là việc của các Đạo Sư Phương Đông, trừ ra vài trường hợp rất hiếm.

For me, there is also the problem of excessive expenditure of force as I attempt to reach each of you and to study each of you at certain intervals. There is the work, at long range, of reading your minds, of seeing your light, and of vitalising your auras. This has not hitherto been the problem of the Eastern Teachers, except in very rare cases.

Những đệ tử hiện nay đang hoạt động trên thế giới tân tiến, dưới sự dìu dắt của các Thánh Sư Minh Triết, đã từng trải qua một giai đoạn điều chỉnh tâm linh sơ khởi và một giai đoạn huấn luyện nên nhớ rằng tôi cũng có một vấn đề khó khăn mà tôi sẵn lòng đảm nhận vì nhu cầu của thế gian, và để góp phần vào việc kiến tạo nên một kỷ nguyên mới có nhiều triển vọng hơn. Bởi vậy, chúng ta hãy trợ giúp nhau để cho những cố gắng của chúng ta được thực hiện dễ dàng.

Those who are now working in the modern world under the Masters of the Wisdom have undergone a preliminary tuning-up process and a training in receptivity during an earlier incarnation or incarnations. [Page 7] Forget not, therefore, that I also have a problem which I am willing to undertake for the sake of a needy world and as my contribution to hastening the coming in of the new and more fruitful era. Let us, therefore, facilitate each others’ efforts.

Tôi không hứa hẹn là sẽ đem lại những kết quả mau chóng. Tôi không cam kết đem lại những sự tiến bộ độc đáo. Các kết quả hoàn toàn do nơi chư môn đệ thực hiện. Tùy nơi lòng kiên nhẫn, sự chính xác trong chi tiết, tinh thần kỷ luật mà chư môn đệ muốn áp đặt vào đời sống của mình và đức vị tha quên mình của chư môn đệ. Tôi yêu cầu chư môn đệ hãy đừng nghĩ đến kết quả và hãy hành động với tinh thần vô dục vô cầu, vì chư môn đệ không thể biết chắc những mục đích mà tôi đặt ra cho chư môn đệ như thế nào. Tôi cũng yêu cầu chư môn đệ hãy gác bỏ sự tự kiểm thường xuyên, liên tục, nó vẫn là đặc tính hướng nội thông thường của nhà Huyền học Tây Phương có nhiều tham vọng.

I promise no quick results. I undertake to provide no spectacular unfoldments. The results rest entirely with you. They depend upon your patience, your exactness in detail, the discipline which you are willing to impose upon your lives and your selfforgetfulness. May I beg of you to leave results alone and to work without attachment for you know not with exactitude what are my goals for you; may I beg you to desist from that constant self-analysis which is such an outstanding characteristic of the introspective, yet ambitious Occidental mystic….

Vậy thì tôi đứng ở vào tư thế nào? Vốn là một nhân viên trong một nhóm lớn các đệ tử Huyền Môn, từ người đạo sinh khiêm tốn nhất đến Đấng Cao Cả nhất trong Thánh đoàn, làm cái gạch nối giữa nhân loại với cõi tâm linh, tôi có thể dạy chư môn đệ những quy luật xưa và đưa ra những sự gợi ý để chư môn đệthể tiến mau hơn trên Đường Đạo và đạt tới hiệu năng lớn lao hơn để phụng sự nhân loại. Không hề có mảy may ngụ ý nào ám chỉ lời tuyên bố đầy uy quyền của Một Đấng Nào trong Thánh đoàn, mà lời nói là quyền phép và phải được tuân theo. Điều này cần được nhớ rõ, nếu không thì không thể thực hiện được điều gì, những nguy cơ có thể xen vào và sự cố gắng hiện tại sẽ thành vô bổ. Sự ẩn danh của tôi vẫn luôn luôn được gìn giữ và sẽ tiếp tục như thế tuy rằng những thành viên trong nhóm đệ tử này biết tôi là ai. Như Môn đệ biết tôi như một đạo sư, một đệ tử Tây Tạng và một vị Điểm Đạo ở một cấp bực nào đó, điều này không có gì chỉ có giáo lý mà tôi sẽ đưa ra cho chư môn đệ mới đáng kể mà thôi. Tôi là một Đạo đồ đi sâu vào những bí hiểm của đời sống. Lời tuyên bố này tự nó có hàm xúc ý nghĩa đối với người biết chuyện. Chư môn đệ cũng biết rằng tôi là một người mang xác phàm và trú ngụ tại Miền Bắc Ấn Độ. Bấy nhiêu cũng đủ và không nên để cho sự tò mò làm cho chư môn đệ bị mù quáng đối với các giáo lý.

What, therefore, is the position I take? That I, one of a great group of disciples who—from the humblest aspirant up to the highest Member of the Hierarchy link humanity with the spiritual kingdom—can teach you the ancient rules and give suggestions to you so that you may travel more rapidly along the Path and arrive at greater usefulness to your fellowmen. There is not the slightest suggestion of authoritative pronouncement by a member of the Hierarchy who must be obeyed and whose word is infallible. Let this be remembered, otherwise work will not be possible, elements of danger may enter in and the present effort come to naught. My anonymity has always been preserved and will continue to be so though members of this group of disciples know me for who I am. You know me as a teacher, as a Tibetan disciple and as an initiate of a certain degree—what degree being of no importance to you at all. It is the teaching that I shall give you which will matter. I am an initiate into the mysteries of being. That statement in itself conveys information to those who know. You know also that I am in a human body, and am a resident of northern India. Let that suffice and let not curiosity blind you to the teaching.

Chúng ta cùng sát cánh với nhau trong công trình thực hiện tâm linh. Tất cả chư môn đệ đã tự nguyện và không cho một áp lực nào bắt buộc, tuyên bố sẵn sàng tiến bước vào một đời sống tâm linh phong phú hơn. Điều này chư môn đệ phải làm trong sự tự do của linh hồn mình và bằng khả năng trí lực của mình. Chư môn đệ sẽ tuân theo những huấn giáo nào mà tự mình thấy đúng và hợp lý, nhưng khi đã quyết định tuân theo thì phải làm tròn những lời yêu cầu một cách đúng đắn. Chư môn đệ sẽ phân tích và chất vấn những lời yêu cầu thỉnh thoảng do tôi đưa ra và sẽ không chấp nhận lời lẽ ngôn từ một cách máy móc. Ngôn từ bao giờ cũng bị giới hạn và là những chướng ngại. Chư môn đệ cũng sẽ làm việc dưới ảnh hưởng của sức khỏe và hoàn cảnh và sẽ luôn luôn nhớ rằng quả vị Thánh Sư chỉ được đạt tới bằng sự nỗ lực chiến thắng để thành công, chứ không phải bằng sự vâng lời bất cứ một người nào. Nên biết rằng tôi, thầy của chư môn đệ, không phải luôn luôn biết rõ tình trạng thể chất hay hành động hàng ngày của mỗi đệ tử. Tôi không quan tâm đến việc riêng của từng cá nhân và những người nào tưởng lầm rằng các Thánh Sư luôn luôn chỉ bảo họ việc gì phải làm, và dìu dắt họ trong những việc cá nhân riêng rẽ, hãy còn cách rất xa, trình độ của người đệ tử chính thức.

We stand together in spiritual enterprise. All of you have voluntarily and without pressure stated your willingness to go forward into a more intensive spiritual life. This you must do in the freedom of your own souls and through the power of [Page 8] your own intellects. You will follow such instructions as seem to you reasonable and right but—when you do choose to follow them—you will attempt to fulfil the requirements with exactitude. You will analyse and question the requirements which from time to time come from me and you will accept no belief in their verbal inspiration. Language ever handicaps and limits. You will also be guided in your work by health and circumstance, and you will ever remember that Masters are made through the achieving of mastery and not through obedience to any person. You will bear in mind that I, your teacher, am not constantly aware of your physical condition or daily doings. I concern not myself with the affairs of the personality and those misguided aspirants who claim that the Masters are forever telling them what to do and are guiding them in their personal affairs are still far from the grade of accepted discipleship.

Hãy nhớ rằng ánh sáng sẽ chiếu rọi vào một tâm hồn biết tự chủ mà không bị lệ thuộc vào một cá nhân nào về phương diện lý trí. Khi những lời sơ giải này đã được hiểu rõ, chúng ta hãy bước qua việc nêu lên những nguyên tắc và cứu xét xem những gì ta có thể làm.

You will remember that the light will shine into a mind that is self-controlled and free from the mental dominance of another mind. With these provisos clearly understood, let us pass on to the enunciation of certain principles and to a consideration of what it may be possible to do.

Điều thứ nhất: Hãy luôn luôn nhớ rằng con đường của người đệ tử trong thời đại mới là một sự thực nghiệm công tác chung từng nhóm, mục đích chính không phải là sự kiện toàn cá nhân của riêng một đệ tử nào trong tập thể. Tôi coi lời tuyên bố đó như một điều căn bản cần thiết. Cá nhân đều có tác dụng bổ khuyết và bồi đắp cho nhau. Sự tổng hợp những ưu điểm của họ là cứu cánh phải tạo nên một nhóm có khả năng biểu lộ những đặc tính tâm linh, xuyên qua nhóm ấy, thần lực và ân huệ thiêng liêng có thể tuôn tràn xuống để giúp đỡ nhân loại. Công việc phải làm là ở trên cõi trí tuệ.

First: Let it be constantly remembered that the new discipleship is primarily an experiment in group work and that its main objective is not the perfecting of the individual disciple in the group. I regard this statement as basic and essential. The individuals are intended to supplement each other and complement each other and in the aggregate of their qualities should eventually provide a group capable of useful, spiritual expression and one through which spiritual energy can flow for the helping of humanity. The work to be done is on the mental plane.

Những lãnh vực công tác của những đệ tử nói riêng vẫn giống y như trước, nhưng ngoài những địa bàn hoạt động khác nhau của từng cá nhân sẽ còn có thêm những sinh hoạt và đời sống tập thể, điều này sẽ trở nên mỗi lúc càng rõ rệt hơn với thời gian qua. Như thế mục đích đầu tiên là củng cố và thống nhất nhóm đệ tử tập thể để cho mỗi người trong nhóm có thể làm việc trong sự hòa hợp trí năng và hợp tác tâm linh một cách chặt chẽ với những người khác. Việc này tất nhiên là phải mất nhiều thời giờ, và sự thành công của cố gắng mới này của Thánh đoàn sẽ tùy nơi thái độ dung hòa khoan hậu và sự ban rải tình thương của mỗi thành viên trong nhóm. Điều này sẽ được thực hiện khá dễ dàng đối với vài đệ tử, nhưng rất khó đối với những người khác.

The spheres of service of individual disciples remain the same as before but to their differing fields of individual endeavour there will be added a group activity and life which will become more clear as time elapses. The first objective is, therefore, to weld and unify the group so that each person in it can work in close mental rapport and spiritual cooperation with the others. This inevitably takes time and the success of this new effort on the part of the Hierarchy will depend upon a noncritical attitude and the outpouring of a spirit of love on the part of each member of the group. This [Page 9] will be fairly easy for some disciples to achieve but very difficult for others.

Ngày nay, nhiều người tiến hóa cao, có một trí óc phân tích quá tỉ mỉ. Tuy nhiên với thời gian qua, và nếu có sự cố gắng sửa đổi thì sự hàn gắn sẽ đạt được nhiều tiến bộ. Bởi vậy, đây là sự cố gắng đầu tiên của nhóm đệ tử của mỗi vị Chân Sư và là một thành quả của chính Thánh đoàn vậy đó là: sự hợp nhất tập thể.

So many high-grade people today have an over-development of the analytical mind. As time goes on, however, and if real effort is made, the welding process will make much progress. This, therefore, is our first effort, as it is the first effort of the group of every Master and the achievement of the Hierarchy itself—group unity.

Mỗi đệ tử phải đặt những ý tưởng riêng tư về sự tiến bộ cá nhân của mình tùy thuộc những nhu cầu tập thể, bởi vì muốn có một nhóm thật hòa hợp và hoạt động như một đơn vị hữu hiệu, thì vài đệ tử sẽ phải hối thúc sự tiến bộ của mình trên vài phương diện và những đệ tử khác sẽ phải tạm thời trì hoãn sự tiến bộ của họ cho vừa tầm mức của đa số. Điều này sẽ diễn ra một cách đương nhiên, nếu tinh thần đồng hóa với tập thểyếu tố hàng đầu trong tư tưởng của mỗi đệ tử, còn sự tiến bộ cá nhân, muốn được sự thỏa mãn tâm linh cho riêng bản thân mình thì phải được đặt xuống hàng thứ yếu. Những nhóm đệ tử trong khuôn khổ của mỗi Đạo Viện (Ashram) cứu cánh sẽ làm việc với nhau, cũng như những phân chi, cục, bộ khác nhau của một tổ chức đại quy mô đều hoạt động ăn khớp với nhau một cách hữu hiệu như một đơn vị duy nhất.

Every disciple has to learn to subordinate his own ideas of personal growth to the group requirements, for—in order to have a coordinated group, functioning as a serviceable unit—some disciples will have to hasten their progress in certain directions and others will have to slow down theirs temporarily to the pace of the majority. This will happen automatically, if the group identity is the dominant factor in the thoughts of each disciple, and desire for personal growth and for spiritual satisfaction is relegated to a secondary place. The groups within each Ashram are intended to work together eventually just as the various departments of some great organisation work together effectively as a unit.

Họ phải hoạt động một cách điều hòa, êm ái và thông minh. Điều này có thể thực hiện được khi nào những thành viên của các nhóm và những nhóm riêng rẽ đều quên những cá tính biệt lập của mình để cố gắng làm cho cuộc thực nghiệm của Thánh đoàn được thành công. Những xúc cảm, những phản ứng, ước vọng và thành công của cá nhân đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có những gì trợ giúp cho sự cố gắng tập thể và bồi dưỡng cho tâm thức của toàn nhóm mới là quan trọng mà thôi. Thí dụ, chỉ có những gì giúp thêm sức mạnh tâm linh cho nhóm đệ tử của tôi hoặc làm tăng hay giảm ánh sáng diệu quang tâm linh của nhóm mới làm cho tôi phải chú ý. Hãy nhớ rằng tôi luôn luôn nhìn vào những nhóm đệ tử của tôi với tầm nhãn quang nội tàng và coi họ như một tập thể duy nhất.

They must function smoothly and intelligently. This will be possible when the individual members in the groups and the individual groups lose sight of their own identities in an effort to make this experiment of the Hierarchy successful. The feelings, reactions, wishes and successes of the individual most emphatically do not count. Only that is regarded as of moment which will further group effort and enrich the group consciousness. Only that, for instance, attracts my attention which brings more spiritual power to my group of disciples or which increases its light or dims its radiance. You need to remember that I look at my groups of disciples always subjectively and as a group.

Tôi chỉ thấy cái diệu quang của toàn thể, tôi chỉ ghi nhận cái tiết điệu thống nhất, cái âm giai và mầu sắc tổng hợp, tôi chỉ nghe cái âm thanh hợp tấu mà họ cùng đồng loạt thốt ra. Tôi lập lại rằng trên một ý nghĩa, những bản chất cá biệt của mỗi đệ tử không quan trọng gì đối với tôi, trừ phi họ nâng cao hay hạ thấp âm ba rung động của toàn nhóm. Trên cương vị bản ngã cá nhân, chư môn đệ không đáng kể đối với chúng tôi, là những Huấn Sư trên khía cạnh ẩn vị, nội tại của cuộc sống. Nhưng trái lại, trên cương vị linh hồn hay Chân Ngã, chư môn đệ rất quan trọng.

It is the total radiance which I see; it is the united rhythm which I note and the united tone and colour; it is the sound they collectively emit which I hear. May I reiterate that in one sense your individualities are of no interest or moment to me, except in so far as you raise or lower the group vibration. As personalities, you matter not to us, the teachers on the inner side. As souls you are of vital moment.

Mỗi đệ tử trong nhóm của một vị chân sưthể có nhiều khuyết điểm và yếu kém, nó tác động như những chướng ngại đối với những đệ tử khác trong nhóm. Nhưng trên cương vị linh hồn, các đệ tử đó có phần thức tỉnh và sống động, đã đạt được ít nhiều kết quả. Tất cả chư môn đệ trong nhóm của tôi cũng ở vào tình trạng ấy. Tôi mến yêu chư môn đệ như những Chân Ngã bất diệt, mà tôi tìm cách giúp đỡ và nâng cao, để chư môn đệ được phát triển và soi sáng tâm linh.

Each disciple in the group of any Master may have many weaknesses and limitations. These act as hindrances to others in the group. But, as souls, such disciples [Page 10] are somewhat awakened and alive and have achieved a certain measure of alignment. So it is with all of you in my group. As souls, I cherish you and seek to aid and lift, to expand and enlighten.

Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh về một điểm khi chúng ta xem xét mỗi cá nhân trong nhóm và mối tương quan của y trong tập thể. Hãy cẩn thận kiểm soát tư tưởng của mình đối với bạn đồng môn, lập tức diệt trừ tất cả mọi sự nghi ngờ, chỉ trích và tìm cách đoàn kết chặt chẽ với nhau trong ánh sáng của Tình thương. Chư môn đệ không hề biết rằng một cố gắng như thế vốn có một mãnh lực hay tiềm năng giải tỏa nhưng sự trói buộc giữa người nọ với người kia và nâng cao toàn nhóm lên một vị thế cao tột.

I would like here to emphasise one point as we consider the individual in the group and his group relations. Watch with care your thoughts anent each other, and kill out at once all suspicion, all criticism and seek to hold each other unwaveringly in the light of love. You have no idea of the potency of such an effort or of its power to release each other’s bonds and to lift the group to an exceedingly high place.

Bằng sự chiếu diệu ánh sáng tinh khiết của tình thương giữa các bạn đồng môn với nhau, chư môn đệthể tiến đến gần tôi hơn và gần với các Chân Sư hơn trên khía cạnh ẩn vị nội tại của đời sống và tiến bước mau hơn vào cửa Đạo Diệu Huyền. Chư môn đệ có cơ hội chứng tỏ cho nhau thấy giá trị khoa họcquyền năng của tình thương, vốn được coi như một sức mạnh trong thiên nhiên. Hãy cố gắng chứng minh điều ấy. Như thế nào chư môn đệ sẽ giải tỏa lần cho nhau tất cả những năng lực cần thiết để đưa đến những thay đổi độc đáo trong nếp sống và mục đích của những thành viên trong nhóm. Tình thương không phải là một tình cảm hay một cảm xúc, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. Tình thương là sự phát động một sức mạnh nó làm vận chuyển bầu thế giới, nó đưa đến sự hội, sự kết hợp (intergration) sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thúc đẩy Thượng Đế hành động, sáng tạo. Tình thương là một vật khó vun trồng, vì tính chất con người vốn ích kỷ. Nó là một điều khó áp dụng vào tất cả mọi trạng thái của cuộc đời và sự biểu lộ tình thương đòi hỏi chư môn đệ phải ban rải ra đến mức tối đa, loại trừ những hành động cá nhân ích kỷ.

By the pure light of love for each other, you can draw nearer to me and to the teachers on the subjective side of life and arrive more rapidly at that Gate which opens on the lighted Way. You have the opportunity to demonstrate to each other the scientific value and power of love, regarded as a force in nature. Make this demonstration your endeavour. You will thus release for each other all that is needed to bring about potent and vital changes in the life patterns and purpose of the group members. Love is not a sentiment or an emotion nor is it desire or a selfish motive for right action in daily life. Love is the wielding of the force which guides the worlds and which leads to the integration, unity and inclusiveness which impels Deity itself to action. Love is a hard thing to cultivate—such is the inherent selfishness of human nature; it is a difficult thing to apply to all conditions of life and its expression will demand of you the utmost you have to give and the stamping out of your selfish personal activities.

Các đệ tử trong nhóm của một vị Chân Sư phải thương yêu nhau một cách thông minh và thành thật gắn bó, như vậy để tạo nên cái ánh sáng và quyền năng cuối cùng sẽ làm cho cả nhóm trở nên có giá trị hữu hiệu trên thế gian. Trong sự liên hệ tiếp xúc giữa Tôi với chư môn đệ trong tương lai, tôi sẽ không cần phải khéo léo che đậy những sự thật mà tôi cần nói với mỗi người bằng cách nào để cho khỏi chạm lòng tự ái. Trong tương lai, tôi sẽ không quan tâm đến những xúc cảm hay phản ứng của phàm ngã vì tôi trông cậy nơi sự thành thật của chư môn đệ.

Disciples in the group of a Master have to love each other with intelligence and an abiding strength and thus release that light and power which will eventually make the group of effective value in the world. As I work with you in the future, I shall not wait to wrap up the truths I have to say to each of you in such a way that they cannot hurt. I shall not in the future consider your personality feelings and reactions because I count upon the sincerity of your purpose.

Có lẽ cần nên nhớ rằng, theo lệ thường không ai tin những gì người khác nói với mình, bất luận điều ấy thật đến đâu, bất luận mình chấp nhận sự thật đến độ nào. Chỉ có những chân lý nào đến với ta do kinh nghiệm bản thân mới thật sự thấm nhập vào tâm thức và đem lại kết quả hữu ích.

Trong sự cố gắng tập thể mà chúng ta đang theo đuổi, tất cả những người trong nhóm đều được cho biết những gì được nói riêng với một đệ tử. Sự kiện ấy thật rất hữu ích và sẽ điều chỉnh mọi sự lệch lạc một cách mau chóng hơn nhiều, miễn là trong sự hợp nhất và trong tình thương, tất cả mọi người sẽ giúp người đệ tử ấy thay đổi cái khía cạnh bất hảo. Hỡi chư môn đệ, tôi chỉ trông cậy có một điều, đó là lòng thành thật của chư môn đệ. Không phải là một việc làm tiêu cực (như có vài người thường nói) mà vạch ra một khuyết điểm hay lỗi lầm khi ánh sáng tỏ rạng của Chân Ngã càng biểu lộ nó sẽ lột trần mặt thật của phàm ngã. Nếu thật có lòng dứt bỏ, nhóm đệ tử này có thể nhìn mọi sự một cách thản nhiên và sẽ không động lòng vì sự tiết lộ những tính chất tốt đẹp hay bất hảo. Nếu chư môn đệ bị xuống tinh thần, hay bực mình va chạm vì sự tiết lộ đó, ấy là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu hạnh dứt bỏ, hãy còn quá thiết tha với Phàm Ngã và dư luận của người khác.

It is perhaps wise to remember here that, as a general rule, no one believes what others may tell him—no matter how apparent [Page 11] the truth or how much the person may protest that he accepts that truth. Only those truths which are wrought out individually in the crucible of experience really penetrate into the living consciousness and bear fruit. But in this group effort which we are undertaking, the fact that all in the group are made aware of what is said to the individual may prove most useful and produce much more rapid adjustments than could otherwise be the case—provided that, unitedly and in love, they will then help their fellow disciple to change the undesirable condition. I count on one thing only, my brothers, and that is your deep sincerity. It is not a negative thing (as some claim) to point out a fault or error. As the clear light of the soul pours in, it reveals the personality for what it is. If true dispassion is practised, this group of disciples can see things as they are and remain untouched by the revelation of the desirable or the undesirable qualities. If you are depressed or irritated or hurt by such revelation, it indicates a basic lack of dispassion and proves attachment to the personality and to the opinions of others.

Điều thứ hai: Tất cả những đệ tử trong một Đạo Viện cần phải Thiền Định, hiểu theo ý nghĩa Huyền Môn chớ không theo ý nghĩa thần bí. Trong mọi công phu thiền định mà chư môn đệ đang thực hành ngay trong hiện tại hoặc trong tương lai, mục đích của chư môn đệ là đạt tới điểm cao nhất càng sớm càng hay, sau khi vượt qua mau chóng các giai đoạn tập trung, định trí và nhập thiền. Sau khi đạt tới điểm đó, chư môn đệ phải cố gắng giữ lấy nó, và như vậy hãy tập tác động như một linh hồn trên cõi riêng của nó, định thần nơi cõi giới năng lượng trong đó tất cả các bậc đã điểm đạo đều hoạt động, và có ngày chư môn đệ cũng phải đạt tới trong kiếp này hay một kiếp khác. Trạng thái tâm linh đó phải được đạt tới một cách thận trọng, phải quan sát đúng đắn sau khi đã đạt được và ghi nhận các ấn tượng một cách chính xác. Bởi vậy, chư môn đệ phải hợp thành một nhóm thiền môn tích cực công phu và kết quả sẽ dễ dàng nếu chư môn đệ chịu suy gẫm và cố gắng thực hiện được điều kiện đầu tiên của sự sinh hoạt tập thể, ấy là sự hợp nhất của nhóm.

Secondly, it is essential that all disciples in an Ashram should be contemplatives, but contemplatives in the occult sense and not the mystical. In any meditation work which you are doing or may in the future do, your aim should be to achieve as rapidly as possible the highest point in the meditation process, passing quickly through the stages of concentration, alignment and meditation to contemplation. Having achieved that high point, you should strive to preserve it and should learn thus to function as a soul in its own world, contemplating the world of energies in which all initiates work and in which you each must some day—in this life or another—take your place. This status (if I may call it by such a name) must be carefully striven for, accurately observed when in any way attained, and an exact record of impressions kept. You should, therefore, constitute a group of active contemplatives, and the result will be facilitated if you will ponder upon and struggle for the first condition of your group existence—group unity.

Điều thứ ba: Sự hợp nhất tập thể này sẽ phát sinh từ công phu thiền định nhóm hợp nhất hoặc trong đời sống chiêm ngưỡng (nơi mà linh hồn tự biết mình là một với tất cả những linh hồn khác) phải được thể hiện trong vài hình thức sinh hoạt tập thể. Điều này phải được lập tức chứng tỏ ngay trong nhóm và về sau này, khi sự thống nhất đã được hoàn bị hơn, nó phải được biểu lộ ra ngoài thế gian. Chính bằng cách đó mà những Đạo Viện của các Thánh Sư sẽ được biểu hiện ngoại tại trên địa cầuThánh đoàn sẽ công khai hoạt động trên cõi hồng trần hạ giới chứ không còn tiềm ẩn một cách kín đáo phía sau hậu trường như từ trước đến nay. Chừng đó thì việc phục hưng qua Huyền Môn sẽ được thực hiện.

Third: This group unity which will have its roots in united group meditation or in the contemplative life (wherein the soul knows itself to be one with all souls) must work out in some form of group activity. This should demonstrate at once in the group itself and later on—when the unification is more complete—in the world at large. It is in this way that the Masters’ Ashrams will be externalised on earth and the Hierarchy function openly on the physical plane and not behind the scenes as hitherto. Then will come the restoration of the Mysteries.