Điểm đạo – Chương 12: Hai sự Khải Thị


Chia sẻ:

CHƯƠNG XII – HAI SỰ KHẢI THỊ

THE TWO REVELATIONS

Trong bài này, đức DK trình bày cho ta hai giai đoạn đầu của tiến trình điểm đạo gồm năm giai đoạn. Ngài cũng lưu ý chúng ta rằng tuy chia ra 5 giai đoạn khác nhau, nhưng kỳ thực mỗi giai đoạn cũng chính là một quá trình hoàn chỉnh, và có thể phân chia ra làm nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Các gai đoạn này được sắp xếp theo một trật tự nhằm đưa người điểm đạo đồ đi từ “sự khải thị này đến khải thị khác, cho đến giai đoạn kết thúc, khi y được truyền một trong các bí nhiệm và một trong năm quyền lực từ để mở ra cho y các cảnh giới khác nhau, với tất cả những trường tiến hoá trong đó”. Các điểm cần lưu ý:

  1. Giai đoạn đầu là giai đoạn khải thị (revealation) của đấng mà đức DK gọi là “Presence”, dịch giả Trân Châu dịch là “Bản tính Thiêng liêng”. Có thể hiểu đó “Đấng Hiện Tồn,” “Bổn Lai Diện Mục” của Thiền Tông. Đây chính là đấng Thái Dương Thiên Thần (The Solar Angel) đã theo ta từ khi biệt lập ngã tính (individualisation), ban cho ta “tia trí tuệ” (spark of mind), giúp cho ta có được ngã thức (self-consciousness).
  2. Đức DK diễn giải cho ta thấy sự tương đồng trong quá trình tiến hoá giữa một đứa bé từ khi sinh ra và một cá nhân trên con đường tiến hoá của mình. Trong những tháng đầu đời, đứa bé nhận biết được thế giới xung quanh trước tiên qua âm thanh, kế đến qua xúc chạm, và cuối cùng qua nhìn thấy. Đây là ba giác quan trọng yếu của con người, giúp đứa bé trở thành một cá thể gắn kết. Con đường phát triển tâm linh nội tại của một cá nhân cũng thế. Đầu tiên ta nghe tiếng nói của lương tâm, nhắc nhở những điều thiện nên làm và những điều ác nên tránh. Tiếp đến là tiếp xúc trong những khoảnh khắc những rung động từ những thực thể bên ngoài cao cả hơn ta, “tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể.” Đây là giai đoạn Con Đường Đệ Tử. Cuối cùng là y thấy được trực tiếp Bản Tính Thiêng Liêng của Chính Mình.
  3. Việc nhận thấy trực diện “Bản Tính Thiêng Liêng” là bước đầu tiên quan trọng mà điểm đạo đồ phải trải qua. Sau đó mới có thể đi đến các bước kế tiếp. Việc trực diện Chân Ngã này được đức DK mô tả như “nhìn thấy một người khác đối diện với mình trên cõi trần (face to face)”.
  4. Trong các cuộc điểm đạo 1, 2, 3, người điểm đạo đồ lần lược thấy được các phương diện khác nhau của đấng Thái dương Thiên Thần. Trong cuộc điểm đạo 1 là phương diện Thông Tuệ; tại cuộc điểm đạo 2 là phương diện Bác Ái Minh Triết; và tại cuộc điểm đạo 3 là phương diện Ý Chí. Các khải thị này hiển lộ trước người điểm đạo đồ theo ba cách:

Như một vị thiên thần sáng ngời. Nội nhãn thấy được vị này với tầm nhìn và phán đoán chính xác như khi hành giả đối diện với một người khác trong nhân loại

Như một khối cầu lửa chói rạng, được nối kết với điểm đạo đồ đứng trước nó bởi sợi dây từ lực bằng lửa, xuyên suốt tất cả các thể của y và tận cùng ở trung tâm của não bộ hồng trần.

Như một Hoa sen chín cánh đa sắc. Các cánh hoa sen này được xếp thành ba vòng quanh một bộ ba cánh hoa khép kín ở trung tâm, che chở cho “Viên Ngọc quí trong Hoa sen” như tên gọi trong các kinh sách Đông phương.

  1. Tại cuộc điểm đạo thứ tư thì “điểm đạo đồ được đối diện với sự Hiện hữu của trạng thái nơi chính y, gọi là “Cha ở trên Trời.” Y được đối diện với Chân thần của chính mình, là tinh hoa thuần khiết của tinh thần trên cảnh giới cao siêu thứ nhì, đối với Chân nhân hay chân ngã cũng giống như Chân nhân đối với phàm nhân hay phàm ngã vậy.”

Cũng tại cuộc điểm đạo này, thể Nguyên Nhân (Nhân thểCausal Body), hay thể Linh hồn bị phá huỷ, đấng Thái Dương Thiên Thần đã hoàn thành sứ mệnh của mình đối với người điểm đạo đồ, Ngài trở về trú xứ của mình. Con người đã trở thành bậc La Hán và được giải thoát khỏi tam giới. Đây là một huyền nhiệm nữa chưa từng được tiết lộ ở bất kỳ đâu, và nay đức DK tiết lộ cho chúng ta:

Phàm ngã đã phục vụ xong các mục đích của Chân nhân, và đã bị loại bỏ; Chân nhân cũng đã phục vụ xong các mục đích của Chân thần và không còn cần thiết; nay điểm đạo đồ trở nên tự do đối với cả hai và hoàn toàn giải thoát, có thể tiếp xúc với Chân thần, như trước kia y đã học cách tiếp xúc với Chân nhân vậy. Thời gian còn lại để hiện diện trong tam giới, y chỉ chịu sự chi phối của ý chí hay mục đích tự đề xuất, tạo ra thể biểu hiện của y để tự quyết định thời cơ hoạt động của chính mình (trong các giới hạn nghiệp quả). Nghiệp quả đề cập ở đây là nghiệp quả hành tinh, chứ không phải nghiệp quảnhân

Đoạn trên đức DK chỉ rõ rằng một vị điểm đạo đồ bậc 4 không còn bị bó buộc phải tái sinh trên cõi trần, mà hoàn toàn tuỳ thuộc ý muốn của y mà thôi. Ý muốn này là để thực hiện công việc phụng sự thiên cơ, chứ y không còn bị ràng buộc bởi nghiệp quảnhân nữa, chỉ còn nghiệp quả của hành tinh. Ngoài ra, một vị La Hánthể tạo ra thể biểu hiện của mình trên cõi trần (gọi là mayavi rupa) bằng quyền năng ý chí, chứ không nhất thiết phải tái sinh như người thường.

  1. Sự khải thị đầu tiên này có tác động sâu sắc lên người điểm đạo đồ vì:

Tín ngưỡng đã được chứng minh, niềm tin và hy vọng hoà hợp thành một sự thực được khẳng định. Đức tin được thay thế bằng thị kiến, và điều chưa thấy thì nay được thấy và biết.

Tình huynh đệ không còn là lý thuyết mà là một sự kiện khoa học được chứng minh; không còn điều gì phải bàn cãi hơn là tính chia rẽ của con ngườicõi trần.

Y được cho thấy và chứng minh tính bất tử của linh hồn và thực tại của các thế giới vô hình. Trong khi, trước cuộc điểm đạo, niềm tin này chỉ căn cứ trên tầm nhìn ngắn ngủi, thoáng qua và các tin tưởng mạnh mẽ ở nội tâm (là kết quả của suy luận hợp lý và trực giác phát triển tăng dần), thì nay nó được căn cứ trên mắt thấy và sự nhận biết bản tính bất tử của chính y, không cách nào phủ nhận được.

Y nhận thức được ý nghĩa và nguồn cội của năng lượng, và có thể bắt đầu vận dụng quyền lực với sự lèo lái chính xác khoa học.

  1. Khải thị thứ hai cho người điểm đạo đồ thấy Quá khứ, Hiện tại, và Tương của chính y, nhóm của y, và của Nhóm lớn hơn nữa.

********************

 

Giờ đây, chúng ta có thể xét đến các giai đoạn của cuộc lễ điểm đạo, tất cả có năm giai đoạn như sau:-

  1. Sự khải thị “Bản tính Thiêng liêng.”
  2. Thấy được “Linh ảnh.”
  3. Việc áp dụng Thần trượng, ảnh hưởng đến:-
    1. Các thể.
    2. Các luân xa.
    3. Thể nguyên nhân.
  4. Sự tuyên thệ.
  5. Truyền thụ “Bí nhiệm” và Linh từ.

We can now consider the stages of the initiation ceremony, which are five in number, as follows:

  1. The “Presence” revealed.
  2. The “Vision” seen.
  3. The application of the Rod, affecting:
    1. The bodies.
    2. The centers.
    3. The causal vehicle.
  4. The administration of the oath.
  5. The giving of the “Secret” and the Word.

Các điểm này được đưa ra theo đúng thứ tự, và chúng ta nên nhớ rằng thứ tự này không phải được sắp xếp không mục đích, mà nhằm đưa điểm đạo đồ tiến tới từ sự khải thị này đến khải thị khác, cho đến giai đoạn kết thúc, khi y được truyền một trong các bí nhiệm và một trong năm quyền lực từ để mở ra cho y các cảnh giới khác nhau, với tất cả những trường tiến hoá trong đó. Những gì trình bày ở đây đều nhằm nêu lên năm phần chính mà lễ điểm đạo tự nhiên phân chia, và người môn sinh cần ghi nhớ rằng chính mỗi giai đoạn trong năm giai đoạn này là một cuộc lễ toàn vẹn, có thể phân chia chi tiết hơn.

Giờ đây chúng ta hãy xét đến các điểm khác nhau này, vắn tắt bàn qua mỗi điểm, và nhớ rằng ngôn từ chỉ làm cho thực nghĩa bị giới hạn.  [113]

These points are given in due order, and it must be remembered that this order is not idly arranged, but carries the initiate on from revelation to revelation until the culminating stage wherein is committed to him one of the secrets and one of the five words of power which open to him the various planes, with all their evolutions. All that is aimed at here is to indicate the five main divisions into which the initiation ceremony naturally divides itself, and the student must bear in mind that each of these five stages is in itself a complete ceremony, and capable of detailed division.

Let us now take up the various points, dwelling briefly upon each, and remembering that words but limit and confine the true meaning. [113]

Sự hiển lộ “Bản tính Thiêng liêng.”The Revelation of the “Presence

Qua các giai đoạn sau của chu kỳ luân hồi, khi hành giả dao động với các cặp đối cực, và nhờ phân biện, trở nên ý thức được điều chân, lẽ giả, trong trí y có sự nhận thức ngày càng tăng, rằng y chính là Sự Sống bất tử, một vị Thượng Đế vĩnh cửu, và là một phần của Nguồn Sống Vô Cùng. Mối liên kết con ngườicõi trần và vị Chúa tể nội tâm ngày càng sáng tỏ hơn cho đến khi sự hiển lộ quan trọng xảy ra. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc sống, hành giả hữu thức đối diện với Đại Ngã thực sự của y và biết y chính thực là Đại Ngã đó chứ không chỉ trong lý thuyết; y trở nên ý thức được Thượng Đế nội tâm, không qua thính giác, hoặc nhờ chú ý vào sự điều khiển và hướng dẫn của tiếng nói nội tâm, gọi là “tiếng nói của lương tâm.” Lần này, y nhận biết bằng thị giác và trực kiến. Nay, y không chỉ đáp ứng với những gì nghe được, mà còn đáp ứng với những gì y thấy được.

Right through the later periods of the cycle of incarnation wherein the man is juggling with the pairs of opposites, and through discrimination is becoming aware of reality and unreality, there is growing up in his mind a realization that he himself is an immortal Existence, an eternal God, and a portion of Infinity. Ever the link between the man on the physical plane and this inner Ruler becomes clearer until the great revelation is made. Then comes a moment in his existence when the man stands consciously face to face with his real Self and knows himself to be that Self in reality and not just theoretically; he becomes aware of the God within, not through the sense of hearing, or through attention to the inner voice directing and controlling, and called the “voice of conscience.” This time the recognition is through sight and direct vision. He now responds not only to that which is heard, but also to that which he sees.

Chúng ta biết rằng các giác quan đầu tiên được phát triển nơi đứa trẻ là thính giác, xúc giác, và thị giác; đứa bé sơ sinh nhận biết âm thanh và quay đầu về hướng đó, nó cảm giác và sờ soạng; cuối cùng nó nhìn thấy một cách ý thức, và phàm ngã được phối kết trong ba giác quan này. Đây là ba giác quan thiết yếu. Vị giác và khứu giác phát triển sau, nhưng chúng ta có thể sống mà không có hai giác quan này, và nếu thiếu chúng, con người vẫn thực sự không bị trở ngại trong các giao tiếp ở cõi trần. Trên đường phát triển nội tâm, trình tự cũng giống như vậy.

It is known that the first senses developed in a child are hearing, touch, and sight; the infant becomes aware of sound and turns his head; he feels and touches; finally, he consciously sees, and in these three senses the personality is co-ordinated. These are the three vital senses. Taste and smell follow later, but life can be lived without them, and should they be absent, the man remains practically unhandicapped in his contacts on the physical plane. On the path of inner, or subjective development, the sequence is the same.

Thính giácđáp ứng với tiếng nói của lương tâm, khi nó hướng dẫn, điều khiển và chế ngự. Điều này bao gồm thời kỳ tiến hoá hoàn toàn bình thường.

Xúc giácđáp ứng với các hướng dẫn hay rung động, và nhận [114] biết được những gì ở bên ngoài cá nhân trên cảnh giới hồng trần. Điều này bao gồm thời kỳ tuần tự khai mở tinh thần, Con Đường Dự Bị và Con Đường Đệ Tử, thẳng lên đến cửa điểm đạo. Hành giả tiếp xúc từng lúc với những gì cao siêu hơn chính y; y dần dần ý thức được “sự tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể, và qua xúc giác huyền bí này y làm quen với những điều nội tại và tinh tế. Y vươn lên tìm kiếm những gì liên quan đến chân ngã, và nhờ tiếp xúc với những điều chưa thấy được, y trở nên quen thuộc với chúng.

Hearing — response to the voice of conscience, as it guides, directs, and controls. This covers the period of strictly normal evolution.

Touch — response to control or vibration, and the recognition of that which lies outside of the separated human [114] unit on the physical plane. This covers the period of gradual spiritual unfoldment, the Paths of Probation and of Discipleship right up to the door of initiation. The man touches at intervals that which is higher than himself; he becomes aware of the “touch” of the Master, of the egoic vibration and of group vibration, and through this occult sense of touch he accustoms himself to that which is inner and subtle. He reaches out after that which concerns the higher self, and through touching unseen things, habituates himself to them.

Cuối cùng là Thị giáclà nội nhãn thông tạo được qua tiến trình điểm đạo, tuy nhiên đó vẫn chỉ là việc nhận ra một quan năng luôn luôn hiện hữu nhưng chưa được biết. Như đứa trẻ từ lúc mới sinh đã có đôi mắt hoàn toàn tốt và trong sáng, nhưng phải đến một ngày nào đó lần đầu tiên nó mới hữu ý nhận thức, ghi nhận được những điều nó thấy, thì con người trải qua cuộc phát triển tinh thần cũng vậy. Cơ quan của nội nhãn vẫn luôn luôn hiện hữu, và những điều có thể thấy vẫn luôn luôn có sẵn, nhưng phần đông người ta vẫn chưa nhận ra được.

Finally, Sightthat inner vision which is produced through the initiation process, yet which is withal[1] but the recognition of faculty, always present yet unknown. Just as an infant has eyes which are perfectly good and clear from birth, yet there comes a day wherein the conscious recognition of that which is seen is first to be noted, so with the human unit undergoing spiritual unfoldment. The medium of the inner sight has ever existed, and that which can be seen is always present, but the recognition of the majority as yet exists not.

Sự “nhận thức” này của điểm đạo đồ là bước quan trọng đầu tiên trong cuộc lễ điểm đạo, và tất cả các giai đoạn khác đều phải đợi cho đến khi đã qua được bước này. Trong các cuộc điểm đạo khác nhau, cái được nhận thức cũng khác nhau, và có thể tóm tắt khái quát như sau:- ­

Chân nhân, phản ánh của Chân thần, chính nó là một tam nguyên như vạn hữu trong thiên nhiên, và phản ánh ba trạng thái thiêng liêng, cũng như trên cõi cao Chân thần phản ánh ba trạng tháiý chí, bác ái-minh triết, và thông tuệ linh hoạt—của Thượng Đế. Thế nên:

This “recognition” by the initiate is the first great step in the initiation ceremony, and until it has transpired all the other stages must wait. That which is recognized differs at the different initiations, and might be roughly summarized as follows:

The Ego, the reflection of the Monad, is in itself a triplicity, as is all else in nature, and reflects the three aspects of divinity, just as the Monad reflects on a higher plane the three aspects — will, love-wisdom, and active intelligence — of the Deity. Therefore:

Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, điểm đạo đồ ý thức được trạng thái thứ ba, thông tuệ linh hoạt, là trạng thái thấp nhất của Chân nhân. Y được đối diện với sự biểu hiện đó của thần thái dương [115] cao cả (là Từ phụ) là chân ngã, là chính y. Nay không còn là mơ hồ lẫn lộn, y biết rằng sự biểu hiện thông tuệ đó là Thực thể vĩnh cửu, qua bao thời đại đã và đang biểu dương các quyền năngcõi trần, trong các kiếp sống liên tiếp của y.

At the first initiation the initiate becomes aware of the third, or lowest, aspect of the Ego, that of active intelligence. He is brought face to face with that manifestation of the great solar angel (Pitri) who is himself, the real self. He [115] knows now past all disturbance that the manifestation of intelligence is that eternal Entity who has for ages past been demonstrating its powers on the physical plane through his successive incarnations.

Vào cuộc điểm đạo thứ hai, y thấy Bản tính Thiêng liêng cao cả này là lưỡng nguyên, và một trạng thái khác chói rạng trước y. Y ý thức được rằng Sự Sống quang huy này, vốn đồng nhất với chính y, không chỉ là thông tuệ đang tác động mà còn có nguồn gốc bác ái-minh triết. Y hoà hợp tâm thức với Sự Sống này và hợp nhất với Nó đến mức, ở cõi trần, thông qua phàm ngã, chúng ta thấy Sự Sống này là bác ái thông tuệ tự biểu lộ.

At the second initiation this great Presence is seen as a duality, and another aspect shines forth before him. He becomes aware that this radiant Life, who is identified with himself, is not only intelligence in action but also is love wisdom in origin. He merges his consciousness with this Life, and becomes one with it so that on the physical plane, through the medium of that personal self, that Life is seen as intelligent love expressing itself.

Vào cuộc điểm đạo thứ ba, Chân nhân hiện ra trước điểm đạo đồ như một tam nguyên hoàn thiện. Không những y biết được Đại Ngã là bác ái thông tuệ, linh hoạt mà Nó cũng được hiển lộ như là ý chí hay chủ đích nền tảng; y lập tức tự đồng nhất với ý chí này và biết rằng trong tương lai tam giới đối với y không còn gì khác hơn là một trường phụng sự tích cực, thực hiện trong tình thương, hướng đến hoàn thành một chủ đích đã ẩn tàng trong tâm của Đại Ngã qua nhiều thời đại. Nay, chủ đích này được hiển lộ để y có thể cộng tác một cách thông minh và hoàn thành.

At the third initiation the Ego stands before the initiate as a perfected triplicity. Not only is the Self known to be intelligent, active love, but it is revealed also as a fundamental will or purpose, with which the man immediately identifies himself, and knows that the three worlds hold for him in the future naught, but only serve as a sphere for active service, wrought out in love towards the accomplishment of a purpose which has been hid during the ages in the heart of the Self. That purpose, being now revealed, can be intelligently co-operated with, and thus matured.

Những khải thị thâm sâu này chói rạng trước điểm đạo đồ theo ba cách:

Như một vị thiên thần sáng ngời. Nội nhãn thấy được vị này với tầm nhìn và phán đoán chính xác như khi hành giả đối diện với một người khác trong nhân loại. Vị Thần thái dương cao cả, hiện thân của Chân nhân và là biểu lộ của Chân nhân trên cảnh giới thượng trí, thực sự là tổ phụ thiêng liêng của y, “Vị trông nom,” qua các chu kỳ luân hồi lâu dài, đã hy sinh ban bố sự sống của chính Ngài, để phàm nhânthể HIỆN TỒN. [116]

These profound revelations shine forth before the initiate in a triple manner:

As a radiant angelic existence. This is seen by the inner eye with the same accuracy of vision and judgment as when a man stands face to face with another member of the human family. The great solar Angel, who embodies the real man and is his expression on the plane of higher mind, is literally his divine ancestor, the “Watcher” who, through long cycles of incarnation, has poured himself out in sacrifice in order that man might BE. [116]

Như một khối cầu lửa chói rạng, được nối kết với điểm đạo đồ đứng trước nó bởi sợi dây từ lực bằng lửa, xuyên suốt tất cả các thể của y và tận cùng ở trung tâm của não bộ hồng trần. Sợi “chỉ bạc” này (như được gọi phần nào thiếu chính xác trong Kinh Thánh,khi mô tả nó tách rời thể xác và sau đó rút khỏi thể này) phát ra từ luân xa tim của Thần thái dương, để liên kết tâm hồn và trí não,—là lưỡng nguyên vĩ đại, bác áithông tuệ, biểu hiện trong thái dương hệ này. Khối cầu lửa này cũng được liên kết với nhiều khối cầu khác thuộc cùng nhóm và cung, và do thế nói rằng trên cảnh giới cao chúng ta là một, là một sự kiện thực tế. Sự sống duy nhất nhịp nhàng lưu chuyển qua tất cả, xuyên qua những đường dây bằng lửa. Đây là một phần của sự khải thị cho người trụ vào “Bản tính Thiêng liêng” với tầm mắt khai mở một cách huyền bí.

As a sphere of radiant fire, linked with the initiate standing before it by that magnetic thread of fire which passes through all his bodies and terminates within the center of the physical brain. This “silver thread” (as it is rather inaccurately called in the Bible, where the description of its loosing of the physical body and subsequent withdrawal is found) emanates from the heart center of the solar Angel, linking thus heart and brain, — that great duality manifesting in this solar system, love and intelligence. This fiery sphere is linked likewise with many others belonging to the same group and ray, and thus it is a literal fact in demonstration that on the higher planes we are all one. One life pulsates and circulates through all, via the fiery strands. This is part of the revelation which comes to a man who stands in the “Presence” with his eyes occultly opened.

Như một Hoa sen chín cánh đa sắc. Các cánh hoa sen này được xếp thành ba vòng quanh một bộ ba cánh hoa khép kín ở trung tâm, che chở cho “Viên Ngọc quí trong Hoa sen” như tên gọi trong các kinh sách Đông phương. Hoa sen này cực kỳ xinh đẹp, với sự sống rung động nhịp nhàng và chói rạng tất cả các màu sắc của cầu vồng; trong ba cuộc điểm đạo đầu tiên, ba vòng này được hiển lộ theo thứ tự, cho đến cuộc điểm đạo thứ tư, điểm đạo đồ đứng trước một sự hiển lộ còn lớn lao hơn nữa, và học được điều bí ẩn trong nụ hoa ở trung tâm. Về phương diện này, cuộc điểm đạo thứ ba hơi khác với hai cuộc điểm đạo trước, vì nhờ quyền năng của một Đấng Điểm Đạo còn cao cấp hơn Đức Bồ-tát mà lần đầu tiên điểm đạo đồ tiếp xúc được với lửa điện của Tinh thần thuần khiết ẩn trong Hoa sen.

As a many tinted Lotus of nine petals. These petals are arranged in three circles around a central set of three closely folded petals, which shield what is called in the eastern books “The jewel in the Lotus.” This Lotus is a thing of rare beauty, pulsating with life and radiant with all the colors of the rainbow, and at the first three initiations the three circles are revealed in order, until at the fourth initiation the initiate stands before a still greater revelation, and learns the secret of that which lies within the central bud. In this connection the third initiation differs somewhat from the other two, inasmuch as through the power of a still more exalted Hierophant than the Bodhisattva, the electrical fire of pure Spirit, latent in the heart of the Lotus, is first contacted.

Tất cả các từ này, “thần thái dương,” “khối cầu lửa,” và “hoa sen,” che giấu một phương diện của bí nhiệm trọng tâm của sự sống con người, nhưng chỉ tỏ rõ đối với những ai có mắt thấy được. Ý nghĩa huyền nhiệm của các nhóm từ hình tượng này sẽ chỉ là cái bẩy hay là cơ sở khiến người ta không còn tin tưởng [117] khi tìm cách cụ thể hoá chúng quá đáng. Trong các thuật ngữ này có ẩn ý tưởng về một sự hiện tồn bất tử, một Thực thể thiêng liêng, một đại trung tâm hỏa năng, và sự bừng nở toàn vẹn của cuộc tiến hoá, và ta phải xem xét chúng theo ý nghĩa đó.

In all these words, “solar angel,” “sphere of fire,” and “lotus,” lies hid some aspect of the central mystery of human life, but it will only be apparent to those who have eyes to see. The mystic significance of these pictorial phrases will prove only a snare or a basis for incredulity to the man who [117] seeks to materialize them unduly. The thought of an immortal existence, of a divine Entity, of a great center of fiery energy, and of the full flower of evolution, lies hidden in these terms, and they must be thus considered.

Vào cuộc điểm đạo thứ tư, điểm đạo đồ được đối diện với sự Hiện hữu của trạng thái nơi chính y, gọi là “Cha ở trên Trời.” Y được đối diện với Chân thần của chính mình, là tinh hoa thuần khiết của tinh thần trên cảnh giới cao siêu thứ nhì, đối với Chân nhân hay chân ngã cũng giống như Chân nhân đối với phàm nhân hay phàm ngã vậy.

At the fourth initiation, the initiate is brought into the Presence of that aspect of Himself which is called “His Father in Heaven.” He is brought face to face with his own Monad, that pure spiritual essence on the highest plane but one, which is to his Ego or higher self what that Ego is to the personality or lower self.

Chân thần đã tự biểu hiện trên cõi trí qua ba trạng thái của Chân nhân, nhưng tất cả những trạng thái của trí tuệ, như chúng ta biết, nay không còn nữa. Vị Thần thái dương từ trước đến giờ y tiếp xúc, nay đã triệt thoái, và hình thể vị này dùng để hoạt động (thể của chân nhân hay thể nguyên nhân) nay đã tiêu tan, chẳng có gì còn lại ngoại trừ bác ái-minh triếtý chí mãnh liệt vốn là đặc trưng chủ yếu của Tinh thần. Phàm ngã đã phục vụ xong các mục đích của Chân nhân, và đã bị loại bỏ; Chân nhân cũng đã phục vụ xong các mục đích của Chân thần và không còn cần thiết; nay điểm đạo đồ trở nên tự do đối với cả hai và hoàn toàn giải thoát, có thể tiếp xúc với Chân thần, như trước kia y đã học cách tiếp xúc với Chân nhân vậy. Thời gian còn lại để hiện diện trong tam giới, y chỉ chịu sự chi phối của ý chí hay mục đích tự đề xuất, tạo ra thể biểu hiện của y để tự quyết định thời cơ hoạt động của chính mình (trong các giới hạn nghiệp quả). Nghiệp quả đề cập ở đây là nghiệp quả hành tinh, chứ không phải nghiệp quảnhân.

This Monad has expressed itself on the mental plane through the Ego in a triple fashion, but now all aspects of the mind, as we understand it, are lacking. The solar angel hitherto contacted has withdrawn himself, and the form through which he functioned (the egoic or causal body) has gone, and naught is left but love-wisdom and that dynamic will which is the prime characteristic of Spirit. The lower self has served the purposes of the Ego, and has been discarded; the Ego likewise has served the purposes of the Monad, and is no longer required, and the initiate stands free of both, fully liberated and able to contact the Monad, as earlier he learned to contact the Ego. For the remainder of his appearances in the three worlds he is governed only by will and purpose, self-initiated, and creates his body of manifestation, and thus controls (within karmic limits) his own times and seasons. The karma here referred to is planetary karma, and not personal.

Vào cuộc điểm đạo thứ tư này, y tiếp xúc với trạng thái bác ái của Chân thần, và với trạng thái ý chí vào cuộc điểm đạo thứ năm; do thế y hoàn tất các giao tiếp, ứng đáp được tất cả các rung động cần thiết, và là chủ nhân trên năm cảnh giới tiến hoá của nhân loại.

Ngoài ra, ngay trong các cuộc điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, y cũng trở nên ý thức được “Đấng Hằng Hữu” bao gồm ngay cả Thực thể tinh thần, là Chân thần của Chính y. Y thấy [118] Chân thần của mình hợp nhất với Đức Hành Tinh Thượng Đế. Qua vận hà của Chân thần, y thấy cũng cùng những trạng thái (mà Chân thần thể hiện) nhưng trên một qui mô rộng lớn hơn, và Đức Hành Tinh Thượng Đế, Đấng phú linh cho tất cả các Chân thần trong cung Ngài, được hiển lộ cho y theo cách đó. Chân lý này hầu như không thể phát biểu bằng lời, và chỉ về mối liên hệ của điểm lửa điện, tức là Chân thần, với ngôi sao năm cánh, giúp cho điểm đạo đồ thấy được sự Hiện hữu của Đức Hành Tinh Thượng Đế. Đây là điều thực sự không thể hiểu được đối với người độc giả bình thường, là đối tượng của sách này.

At this fourth initiation he contacts the love aspect of the Monad, and at the fifth the will aspect, and thus completes his contacts, responds to all necessary vibrations, and is master on the five planes of human evolution.

Further, it is at the third, the fourth, and the fifth initiations that he becomes aware also of thatPresence” which enfolds even that spiritual Entity, his own Monad. [118] He sees his Monad as one with the Planetary Logos. Through the channel of his own Monad he sees the selfsame [2] aspects (which that Monad embodies) on a wider scale, and the Planetary Logos, who ensouls all the Monads on his ray, is thus revealed. This truth is well-nigh impossible to express in words, and concerns the relation of the electrical point of fire, which is the Monad, to the fivepointed star, which reveals the Presence of the Planetary Logos to the initiate. This is practically incomprehensible to the average man for whom this book is written.

Vào cuộc điểm đạo thứ sáu, hoạt động hữu thức như là trạng thái bác ái của Chân thần, điểm đạo đồ (thông qua “Từ phụ” của y) được đưa vào một sự nhận thức còn rộng lớn hơn nữa, và biết được ngôi sao bao trùm ngôi sao hành tinh của y, cũng như trước đây y đã thấy ngôi sao hành tinh bao trùm “Điểm Linh Quang” nhỏ bé của y. Bằng cách này y hữu thức tiếp xúc với Đức Thái Dương Thượng Đế, và ở nội tâm nhận thức được tính Duy nhất của toàn cuộc sống và cuộc biểu hiện.

At the sixth initiation, the initiate, functioning consciously as the love-aspect of the Monad, is brought (via his “Father”) into a still vaster recognition, and becomes aware of that Star which encloses his planetary star, just as that star has earlier been seen as enclosing his own tiny “Spark.” He thus makes his conscious contact with the solar Logos, and realizes within himself the Oneness of all life and manifestation.

Sự nhận thức này được mở rộng vào cuộc điểm đạo thứ bảy, khiến cho hai trạng thái của Sự Sống Duy Nhất trở thành hiện thực đối với vị Phật đã giải thoát.

Thế là, nhờ một loạt các bước tiến tăng dần, điểm đạo đồ được trực kiến Chân lý và Sự Sống Hằng Hữu. Các môn sinh suy gẫm sâu xa sẽ hiểu rõ được tại sao sự hiển lộ này của Bản tính Thiêng liêng phải có trước tất cả các cuộc hiển lộ khác, giúp cho trí tuệ điểm đạo đồ nhận thức được những điều cơ bản sau đây:-

This recognition is extended at the seventh initiation, so that two aspects of the One life become realities to the emancipated Buddha.

Thus by a graded series of steps is the initiate brought face to face with Truth and Existence. It will be apparent to thoughtful students why this revealing of the Presence has to precede all other revelations. It produces within the mind of the initiate the following basic realizations:

Tín ngưỡng của y qua nhiều thời đại nay đã được chứng minh, niềm tin và hy vọng hoà hợp thành một thực kiện tự khẳng định. Đức tin được thay thế bằng thị kiến, và điều chưa thấy thì nay được thấy và biết. Y không còn có thể nghi ngờ điều gì, và thay vào đó, nhờ tự nỗ lực, y trở thành một thức giả.

Y được chứng tỏ cho thấy là một với các huynh đệ, và nhận biết được mối liên hệ bất diệt ràng buộc y với đồng bào của mình ở khắp nơi. Tình huynh đệ không còn là lý thuyết mà là một sự [119] kiện khoa học được chứng minh; không còn điều gì phải bàn cãi hơn là tính chia rẽ của con ngườicõi trần.

His faith for ages is justified, and hope and belief merge themselves in self-ascertained fact. Faith is lost in sight, and things unseen are seen and known. No more can he doubt, but he has become instead, through his own effort, a knower.

His oneness with his brothers is proven, and he realizes the indissoluble link which binds him to his fellow-men everywhere. Brotherhood is no longer a theory but a proven [119] scientific fact, no more to be disputed than the separateness of men on the physical plane is to be disputed.

Y được xác định và chứng minh cho thấy tính bất tử của linh hồn và thực tại của các thế giới vô hình. Trong khi, trước cuộc điểm đạo, niềm tin này chỉ căn cứ trên tầm nhìn ngắn ngủi, thoáng qua và các tin tưởng mạnh mẽ ở nội tâm (là kết quả của suy luận hợp lý và trực giác phát triển tăng dần), thì nay nó được căn cứ trên mắt thấy và sự nhận biết bản tính bất tử của chính y, không cách nào phủ nhận được.

Y nhận thức được ý nghĩa và nguồn cội của năng lượng, và có thể bắt đầu vận dụng quyền lực với sự lèo lái chính xác khoa học. Nay y biết rút năng lượng từ đâu, và thoáng thấy những tài nguyên năng lượng khả dụng. Trước kia, y đã biết rằng năng lượng vốn hiện hữu, và sử dụng nó một cách mù quáng và đôi khi thiếu khôn ngoan; nay y thấy nó theo sự hướng dẫn “của trí tuệ rộng mở” và có thể cộng tác một cách thông minh với các mãnh lực của thiên nhiên.

Thế là, theo nhiều lối, sự hiển lộ Bản tính Thiêng liêng tạo nên các kết quả rõ rệt nơi điểm đạo đồ, và do đó được ĐĐCG xem là phần mở đầu cần thiết cho tất cả các cuộc hiển lộ về sau.

The immortality of the soul and the reality of the unseen worlds is for him proven and ascertained. Whereas, before initiation, this belief was based on brief and fleeting vision and strong inner convictions (the result of logical reasoning and of a gradually developing intuition) now it is based on sight and on a recognition past all disproving, of his own immortal nature.

He realizes the meaning and source of energy, and can begin to wield power with scientific accuracy and direction. He knows now whence he draws it, and has had a glimpse of the resources of energy which are available. Before, he knew that the energy existed, and used it blindly and sometimes unwisely; now he sees it under the direction of the “open mind,” and can co-operate intelligently with the forces of nature.

Thus, in many ways, does the revelation of the Presence produce definite results in the initiate, and thus it is judged by the Hierarchy to be the necessary preamble to all later revelations.

 

Sự hiển lộ Linh thị The Revelation of the Vision

Sau khi đã đưa điểm đạo đồ đối diện với Đấng Duy Nhất mà từ vô số thời đại y đã có liên hệ, và sau khi đã khơi dậy nơi y một sự nhận thức không thể lay chuyển về tính duy nhất của sự sống nền tảng khi nó biểu hiện qua tất cả những đời sống nhỏ bé hơn, thì kế tiếp là sự hiển lộ quan trọng về Linh thị. Sự hiển lộ thứ nhất liên quan đến cái không thể định nghĩa, không thể giới hạn, và là vô hạn (đối với trí tuệ hữu hạn) vì có tính trừu tượng và tuyệt đối. Sự khải thị thứ nhì liên quan đến thời giankhông gian, và bao gồm nhận thức của điểm đạo đồ—qua thị giác huyền [120] bí mới được khai mở—về phần việc của y đã làm và đang phải làm trong Thiên Cơ, và về sau thì nhận thức được chính Thiên Cơ, trong liên hệ với:-

  1. Chân nhân của y.
  2. Nhóm Chân nhân của y.
  3. Nhóm thuộc cung của y.
  4. Đức Hành Tinh Thượng Đế của y.

Having brought the initiate face to face with the One with whom for countless ages he has had to do, and having awakened in him an unshakable realization of the oneness of the fundamental life as it manifests through all lesser lives, the next momentous revelation is that of the Vision. The first revelation has concerned that which is undefinable, illimitable, and (to the finite mind), infinite in its abstractness and absoluteness. The second revelation concerns time and space, and involves the recognition by the initiate — through the newly aroused sense of occult sight — of [120] the part he has played and has to play in the plan, and later of the plan itself in so far as it concerns:

  1. His Ego.
  2. His egoic group.
  3. His ray group.
  4. His Planetary Logos.

Bốn mức thấu hiểu này cho thấy sự nhận thức tăng dần của điểm đạo đồ trong quá trình bốn cuộc điểm đạo, đưa đến sự giải thoát cuối cùng.

Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, y trở nên ý thức đến mức nào đó về phần việc, tương đối chưa rõ ràng, mà y phải thi hành trong đời sống cá nhân y, trong khoảng thời gian sau đó, từ lúc được khải thị cho đến cuộc điểm đạo thứ nhì. Điều này có thể cần thêm một hay nhiều kiếp sống. Y biết được chiều hướng mà các kiếp sống này nên theo, phần nào nhận thức được phận sự của mình trong việc phụng sự nhân loại; y thấy Thiên Cơ là toàn thể, trong đó y là một miếng khảm nhỏ bé bên trong mô hình tổng quát; y ý thức được làm cách nào với loại trí tuệ của mình, với khả năng, trí năng và những kiến thức khác, y có thể phục vụ, và phải hoàn tất những gì trước khi y có thể lại an trụ vào Bản tính Thiêng liêng và nhận được một sự khải thị rộng lớn hơn.

In this fourfold apprehension you have portrayed the gradual realization that is his during the process of the four initiations preceding final liberation.

At the first initiation he becomes aware definitely of the part, relatively inconspicuous, that he has to play in his personal life during the period ensuing between the moment of revelation and the taking of the second initiation. This may involve one more life or several. He knows the trend they should take, he realizes somewhat his share in the service of the race; he sees the plan as a whole where he himself is concerned, a tiny mosaic within the general pattern; he becomes conscious of how he — with his particular type of mind, aggregate of gifts, mental and otherwise, and his varying capacities — can serve, and what must be accomplished by him before he can again stand in the Presence, and receive an extended revelation.

Vào cuộc điểm đạo lần thứ hai, y được cho thấy phần hành mà nhóm chân ngã của y thực hiện trong đại cuộc. Y ngày càng hiểu biết nhiều hơn về các thành viên của nhóm mà y đương nhiên liên kết; y nhận biết cá nhân họ là ai, nếu họ đang lâm phàm, và phần nào thấy được những liên hệ nghiệp quả giữa các nhóm, các thành viên và chính y; y được thấu hiểu mục đích cụ thể của nhóm, và mối liên hệ của nhóm với các nhóm khác. Giờ đây, y có thể làm việc một cách tự tin hơn, và có quan hệ vững chắc hơn với mọi người ở cõi trần; y có thể vừa giúp họ và chính mình điều chỉnh nghiệp quả, và do thế giúp họ tiến nhanh hơn [121] đến mức giải thoát cuối cùng. Các liên hệ tập thể được củng cố, các kế hoạch và mục đích có thể được tiến hành một cách thông minh hơn. Khi các quan hệ tập thể này thêm củng cố, chúng tạo nên hành động hợp tác ở cõi trần và sự hợp nhất minh triết trong mục đích, giúp thực hiện các lý tưởng cao siêu, thích dụng những mãnh lực để khôn ngoan đẩy nhanh các mục tiêu tiến hoá. Khi điều này đã đạt đến một giai đoạn nhất định, những thành viên hợp thành các nhóm đã học được cách làm việc với nhau, và do đó đã khích lệ lẫn nhau, thì giờ đây họ có thể tiến đến mức mở mang kiến thức rộng lớn hơn, tạo thêm nhiều khả năng trợ giúp.

At the second initiation the part his egoic group plays in the general scheme is shown to him. He becomes more aware of the different group units with whom he is intrinsically associated; he realizes who they are in their personalities, if in incarnation, and he sees somewhat what are the karmic relations between groups, units and himself; he is given an insight into the specific group purpose, and its relation to other groups. He can now work with added assurance, and his intercourse with people on the physical plane becomes more certain; he can both aid them and himself in the adjusting of karma, and therefore bring about a more [121] rapid approach to the final liberation. Group relations are consolidated, and the plans and purposes can be furthered more intelligently. As this consolidation of group relations proceeds, it produces on the physical plane that concerted action and that wise unity in purpose which results in the materialization of the higher ideals, and the adaptation of force in the wise furthering of the ends of evolution. When this has reached a certain stage, the units forming the groups have learned to work together, and have thus stimulated each other; they can now proceed to a further expansion of knowledge, resulting in a further capacity to help.

Vào cuộc điểm đạo thứ ba, điểm đạo đồ được tiết lộ mục đích của cung phụ của cung y, tức là cung của Chân nhân. Mọi Chân nhân đều ở một cung phụ nào đó của cung Chân thần. Hiểu biết này được ban bố cho điểm đạo đồ để giúp y rốt cuộc có thể tự tìm thấy cung Chân thần của mình (theo con đường ít trở ngại nhất). Cung phụ này mang trong dòng năng lượng của nó nhiều nhóm Chân nhân, và do đó điểm đạo đồ được ý thức không những nhóm Chân nhân của y và mục đích sáng suốt của nhóm, mà còn biết được nhiều nhóm khác có thành phần tương tự. Năng lượng hợp nhất của họ đang hoạt động hướng đến một mục đích đã xác định rõ ràng.

At the third initiation there is revealed to the initiate the purpose of the subray of the ray to which he belongs, that upon which his Ego finds itself. All egoic units are upon some subray of the monadic ray. This knowledge is conferred upon the initiate so as to enable him eventually to find for himself (along the line of least resistance) the ray of his Monad. This subray bears upon its stream of energy many groups of Egos, and the initiate is therefore made aware not only of his egoic group and its intelligent purpose, but of many other groups, similarly composed. Their united energy is working towards a clearly defined goal.

Sau khi đã học được phần nào các mối liên giao của nhóm, và đã phát triển khả năng làm việc với các thành viên trong hình thức tập thể, giờ đây điểm đạo đồ học đến bí quyết để cả nhóm phục vụ cho lợi ích của toàn thể các nhóm. Điều này sẽ biểu thị ở cõi trần thành một khả năng làm việc khôn ngoan, thông minh và hoà hợp với nhiều mẫu người khác nhau, có thể cộng tác trong các kế hoạch lớn và vận dụng ảnh hưởng rộng rãi.

Having learned somewhat group relations, and having developed the ability to work with units in group formation, the initiate now learns the secret of group subordination to the good of the aggregate of groups. This will demonstrate on the physical plane as an ability to work wisely, intelligently and harmoniously with many diverse types, and to co-operate in large plans and wield wide influence.

Một phần các kế hoạch của Hành Tinh Thượng Đế được tiết [122] lộ cho y, và linh thị này bao gồm sự hiển lộ Thiên CơThiên Ý dành cho hành tinh này, dù rằng cho đến nay linh thị về các kế hoạch đó vẫn còn ẩn tàng trong quan hệ hành tinh.

Điều này đưa điểm đạo đồ qua một loạt các nhận thức tăng dần đến cửa điểm đạo thứ tư. Khi điểm đạo đồ hoàn toàn giải thoát khỏi mọi chướng ngại trong tam giới và đoạn lìa các xiềng xích giới hạn nghiệp quả thì lúc này tầm mắt của y được mở mang rộng lớn, và có thể nói rằng lần đầu tiên y ý thức được tầm mức của Thiên Ý hành tinhnghiệp quả bên trong hệ thống. Nghiệp quả không quan trọng của riêng cá nhân y nay đang được điều chỉnh, y có thể chú ý đến việc thanh toán nghiệp quả hành tinh và các kế hoạch rộng lớn của Đấng Cao Cả bao gồm mọi sự sống nhỏ bé trong Ngài. Y không chỉ nhận thức đầy đủ về các mục đích và kế hoạch dành cho tất cả những trường tiến hoá trong hệ thống hành tinh của chính y, là địa cầu, mà còn có khả năng hiểu được hệ thống hành tinh bổ túc hay là đối cực của địa cầu chúng ta. Y nhận thức được mối tương quan tồn tại giữa hai hệ thống, và Thiên Ý lưỡng phân rộng lớn được tiết lộ cho y. Y cũng được thấy làm thế nào Thiên Ý lưỡng phân này phải trở thành một Thiên Cơ hợp nhất, và từ đó về sau y dồn hết năng lượng vào cuộc hợp tác hành tinh khi nó được xúc tiến bằng công việc thực hiện với vàqua hai trường tiến hoá lớn trên hành tinh chúng ta, là nhân loại và giới thiên thần. Việc làm này liên quan đến các điều chỉnh, và dần dần áp dụng năng lượng để kích thích các giới khác nhau trong thiên nhiên, để nhờ sự kết hợp tất cả các mãnh lực trong thiên nhiên mà tương tác năng lượng giữa hai hệ thống thêm nhanh chóng. Theo cách này, các kế hoạch của Đức Thái Dương Thượng Đế, đang được hai vị Hành Tinh Thượng Đế thực hiện, có thể thành tựu. Do đó, nay y có được đặc quyền vận dụng năng lượng thái dương trên qui mô nhỏ, và không những y được nhận vào các hội đồng của ĐĐCG, mà cũng được phép tham dự khi các sứ giả từ những hệ hành tinh khác đến hội nghị với Đức [123] Chúa Tể Hoàn Cầu và hai Đấng Cao Cả trưởng ngành.

A part of the plans of the Planetary Logos becomes revealed to him, and the vision includes the revelation of the plan and purpose as it concerns the planet, though as yet the [122] vision is obscured in connection with those plans in their planetary relationship.

This brings the initiate through a series of graded realizations to the portals of the fourth initiation. Through the entire loosing of the initiate from all trammels in the three worlds and the breaking of all bonds of limiting karma, the vision this time is greatly extended, and it might be said that for the first time he becomes aware of the extent of planetary purpose and karma within the scheme. His own personal unimportant karma being now adjusted, he can give his attention to the working off of planetary karma, and the far reaching plans of that great Life who includes all the lesser lives. He not only is brought to a full recognition of the purposes and plans for all the evolutions upon his own planetary scheme, the earth, but also there swings into the radius of his apprehension that planetary scheme which is our earth’s complement or polar opposite. He realizes the inter-relation existing between the two schemes and the vast dual purpose is revealed to him. It is shown to him how this dual purpose must become one united plan, and henceforth he bends all his energies towards planetary co-operation as it is furthered by work with and through the two great evolutions, human and deva, upon our planet. This concerns the making of adjustments, and the gradual application of energy in stimulation of the various kingdoms in nature, so that through the blending of all of nature’s forces the interplay of energy between the two schemes may be quickened. In this way the plans of the solar Logos, as they are being worked out through two Planetary Logoi, may be consummated. The handling, therefore, of solar energy on a tiny scale, is now his privilege, and he is admitted not only into the council chambers of his own Hierarchy, but is permitted entrance also when agents from other planetary schemes are in [123] conference with the Lord of the World and the two great departmental heads.

Vào cuộc điểm đạo thứ năm, linh thị giúp điểm đạo đồ có được một tầm nhìn còn rộng lớn hơn nữa và thấy được một hệ hành tinh thứ ba, hợp với hai hệ hành tinh kia thành một trong những tam giác lực cần thiết để thực hiện cuộc tiến hoá thái dương. Giống như toàn cuộc biểu hiện tiến triển qua lưỡng nguyên và tam nguyên cho đến mức tổng hợp chung cuộc, thì các hệ thống này, vốn chỉ là các trung tâm lực trong thể của Đức Thái Dương Thượng Đế, trước hết cùng hoạt động như những đơn vị riêng rẽ tự sống cuộc sống hoàn toàn của chính mình, sau đó hoạt động như những lưỡng nguyên, qua tương tác mãnh lực giữa hai hệ thống, để trợ giúp, kích thích và bổ túc lẫn nhau, và cuối cùng hoạt động như một tam giác thái dương, luân chuyển mãnh lực từ điểm này đến điểm khác, từ trung tâm này đến trung tâm khác cho đến khi năng lượng được hoà hợp, tổng hợp và cả ba hệ thống cùng hoạt động hợp nhất.

At the fifth Initiation the vision brings to him a still more extended outlook and a third planetary scheme is seen, forming with the other two schemes one of those triangles of force which are necessitated in the working out of solar evolution. Just as all manifestation proceeds through duality and triplicity back to eventual synthesis so, these schemes, which are but centers of force in the body of a solar Logos, work first as separated units living their own integral life, then as dualities, through the interplay of force through any two schemes, thus aiding. stimulating and complementing each other, and finally as a solar triangle, circulating force from point to point and center to center until the energy is merged and synthesized and the three work together in unity.

Khi vị Chân sư được điểm đạo lần thứ năm có thể làm việc phù hợp với các kế hoạch của ba vị Hành Tinh Thượng Đế liên hệ, cộng tác cùng các Đấng này với khả năng ngày càng lớn lao theo thời gian, thì Ngài trở nên sẵn sàng để được điểm đạo lần thứ sáu, được nhận vào các hội đồng còn cao cấp hơn nữa, và được tham dự vào các mục đích của thái dương hệ chứ không chỉ các mục đích hành tinh.

Vào cuộc điểm đạo thứ sáu, Ngài có được linh thị kỳ diệu nhất trong tất cả các linh thị. Ngài thấy thái dương hệ là một đơn vị, và ngạc nhiên hiểu ra sự tiết lộ ngắn ngủi về mục đích cơ bản của Đức Thái Dương Thượng Đế; lần đầu tiên Ngài thấy toàn bộ các kế hoạch và tất cả các chi tiết.

When the adept of the fifth initiation can work in line with the plans of the three Logoi involved, co-operating with them with ever greater ability, as time elapses, he becomes ready for the sixth Initiation, which admits him to still higher conclaves. He becomes a participant in solar and not merely planetary purposes.

At this sixth Initiation the most marvelous vision of the entire series is his. He sees the solar system as a unit, and gets a brief revealing which opens to his amazed understanding the fundamental purpose of the solar Logos

; for the first time he sees the plans as a whole in all their ramifications.

Vào cuộc điểm đạo thứ bảy, tầm mắt của Ngài vượt xa hơn vòng hạn định thái dương, và Ngài thấy được điều mà từ lâu Ngài đã nhận thức là sự kiện lý thuyết cơ bản, rằng Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta được bao gồm trong các kế hoạch và mục đích của một Đấng còn vĩ đại hơn nữa, và thái [124] dương hệ chỉ là một trong nhiều trung tâm lực mà qua đó một Thực thể vũ trụ cao siêu vĩ đại hơn Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, đang tự phát biểu. Trong tất cả các viễn ảnh này có ẩn một mục đích vĩ đại duy nhất,—sự hiển lộ tính đồng nhất cốt yếu và phô bày các mối quan hệ nội tại, mà khi biết được, điểm đạo đồ sẽ ngày càng hoàn toàn xả thân phụng sự, và làm việc hướng đến sự tổng hợp, hướng đến sự điều hòa, và hướng đến sự hợp nhất cơ bản.

At the seventh Initiation his vision penetrates beyond the solar ring-pass-not, and he sees that which he has long realized as a basic theoretical fact, that our solar Logos is involved in the plans and purposes of a still greater Existence, and that the solar system is but one of many centers of force through which a cosmic Entity vastly greater than [124] our own solar Logos is expressing himself. In these visions one great purpose underlies them all, — the revelation of essential unity and the unveiling of those inner relationships, which, when known, will tend ever more fully to swing the initiate into the line of self-abnegating service, and which will make of him one who works towards synthesis, towards harmony, and towards a basic unity.

Trong lễ điểm đạo, việc khai mở linh thị để điểm đạo đồ có thể thấy và hiểu, tự chia thành ba phần, nhưng vẫn thuộc về một tiến trình duy nhất:

1. Quá khứ diễn ra trước mắt điểm đạo đồ, y thấy mình giữ nhiều phận sự, và hiểu rằng tất cả chỉ nhằm từ từ đưa các mãnh lực và năng lực của y đến mức có thể phục vụ cho nhóm và với nhóm. Tùy theo từng cuộc điểm đạo, y thấy được và tự đồng nhất với

Chính y trong nhiều kiếp trước.

Nhóm của y trong các kiếp trước.

Cung Chân nhân của y khi nó biểu lộ qua nhiều chu kỳ thời gian.

Đức Hành Tinh Thượng Đế của y khi Ngài hoạt động trong quá khứ qua nhiều trường tiến hoá và giới tiến hoá trong toàn hệ thống,

và cứ thế cho đến khi y tự đồng nhất với quá khứ của sự sống duy nhất lưu chuyển qua tất cả các hành tinh hệ và các trường tiến hoá trong thái dương hệ. Điều này khiến y quyết tâm trả sạch nghiệp quả, và (nhờ thấy được các nguyên nhân quá khứ) y biết cách phải thanh toán thế nào.

During the Initiation ceremony, the opening of the eyes of the Initiate to see and realize, divides itself into three parts, which are nevertheless parts of one process:

1.The past sweeps before him, and he sees himself playing many parts, all of which are realized to be but the gradual bringing of his forces and capacities to the point where he can be of service to and with his group. He sees and identifies himself — according to the particular initiation — with

Himself in many earlier lives.

His group in earlier groups of lives.

His egoic ray as it pours down through many cycles of time.

His Planetary Logos as he functions in the past through many evolutions and kingdoms in the entire scheme,

and so on until he has identified himself with the past of the one life flowing through all planetary schemes and evolutions in the solar system. This produces in him the resolve to work off karma, and the knowledge (from the seeing of past causes) of how it must be accomplished.

2. Hiện tại. Y được tiết lộ cho biết công tác cụ thể cần phải thực hiện trong suốt chu kỳ ngắn hạn mà y đang sống. Điều này có nghĩa là y không chỉ thấy được những gì liên quan đến mình [125] trong một kiếp sống, mà y cũng biết đâu là phần việc ngay trước mắt trong Thiên Cơ—có lẽ bao gồm nhiều chu kỳ ngắn ngủi gọi là những kiếp sống của y—mà Đức Hành Tinh Thượng Đế muốn thấy được hoàn tất. Bấy giờ có thể nói là điểm đạo đồ đã hoàn toàn biết được công tác của mình, có thể chú tâm làm nhiệm vụ, và biết rõ lý do, phương cách và thời cơ hành động.

2.The present.It is revealed to him what is the specific work to be done during the lesser cycle in which he is immediately involved. This means that he sees not only that which concerns him in any one life, but he knows what is to [125] be the immediate bit of the plan — involving maybe several of his tiny cycles called lives — which the Planetary Logos seeks to see consummated. He then may be said to know his work past all gainsaying, and can apply himself to his task with a clear knowledge as to the why, the how, and the when.

3. Tương lai. Rồi y được khích lệ bằng cách cho thấy hình ảnh sự thành tựu chung cuộc của một nguồn vinh quang khôn tả, với một số điểm nổi bật, chỉ rõ các bước chính yếu để đi đến đó. Trong phút giây ngắn ngủi, y thấy được nguồn vinh quang tiền định, và con đường mỹ lệ quang huy càng thêm chói rạng cho đến ngày hoàn mãn. Trong các giai đoạn đầu, y thấy được sự vinh quang của nhóm Chân nhân hoàn thiện; về sau là nguồn quang huy của cung bao gồm những người con hoàn thiện của nhân loại thuộc một kiểu mẫu hay màu sắc riêng biệt; sau nữa, y thoáng thấy sự hoàn thiện của Đấng Cao Cả là Đức Hành Tinh Thượng Đế của y, cho đến cuối cùng y được thấy sự hoàn thiện với tất cả vẻ mỹ lệ, quang huy bao gồm tất cả các cung ánh sáng khác—mặt trời chói sáng rực rỡ, mục đích của Đức Thái Dương Thượng Đế đã đến mức hoàn thành viên mãn. [126]

3. The future.Then, for his encouragement, there is granted to him a picture of a final consummation of a glory past all description, with a few outstanding points indicative of the major steps thereto. He sees for one brief second the glory as it shall be, and that path of radiant beauty which shineth ever more and more unto the perfect day. In the earlier stages he sees the glory of his perfected egoic group; later the radiance which pours forth from the ray which carries on its bosom the perfected sons of men of one particular color and type; later again he gets a glimpse of the perfection of that great Being who is his own Planetary Logos, until finally the perfection of all beauty and the radiance which includes all other rays of light is revealed, — the sun shining in his strength, the solar Logos at the moment of consummated purpose. [126]

1915 — Tổng số lần đọc 4 — Hôm nay

Chia sẻ: