Các giai đoạn trên đường đạo Phần 3 – Giai đoạn đệ tử trong Ánh Sáng


Chia sẻ:

Bài viết sau đây nói về giai đoạn thứ hai trên Con Đường Đệ tử–Giai đoạn Đệ tử Trong Ánh Sáng. Sau đây là những điểm cần lưu ý:

  1. Trong bài, đức DK nói nhiều về ảo cảm (glamours) vì đây là vấn đề mà người đệ tử trong ánh sáng bắt đầu đối diện. Ảo cảm gồm có ba dạng: maya hay ảo ảnh trên cõi trần, glamours hay ảo cảm trên cõi trung giới, và illusion hay ảo tưởng trên cõi trí. Ảo cảmngười đệ tử trong ánh sáng phải nhận diện và khắc phục là ảo cảm cõi trung giới. Người đệ tử trong ánh sáng là người tập nhận diện và phá tan ảo cảm nơi bản thân mình, đồng thời cũng giúp vào việc phá bỏ ảo cảm của thế gian.
  2. Bạn cũng nên lưu ý các thuật ngữ đặc biệt Ngài dùng: will-to-good, tạm dịch là ý chí-hướng-thiện; will-to-love: ý chí-hướng-đến-tình-thương; will-to-fire: ý chí-thiêu đốt. The will-to-good không phải là goodwill (thường được dịch là thiện chí). Những từ này Ngài sử dụng theo ý nghĩa đặc biệt riêng của nó, và đòi hỏi một sự tìm hiểu hiểu tinh vi để có thể hiểu được.
  3. Trong bài Ngài cũng nói đến sự giáng lâm của Đấng Hoá Thân (Avatar). Đấng Hóa Thân ở đây Ngài nhắc đến là đức Christ. Câu Ngài nói có ý nghĩa thâm sâu mà ta phải nghiền ngẫm:  chính các đệ tử của thế gian chớ không phải người đời làm ngăn trở sự tái lâm của Ngài.
  4. Giai đoạn đệ tử trong Ánh sángthể kéo dài 2-3 kiếp, tùy theo nhiệt tâm của người đệ tử. Trong giai đoạn này, Chân sư chưa tiếp xúc trực tiếp với người đệ tử mà chỉ liên hệ qua trung gian của một đệ tử cao cấp của Ngài. Người đệ tử cao cấp này định kỳ báo cáo cho Ngài mỗi năm hai lần về sự tiến bộ của người đệ tử trong Ánh sáng. Khi thời điểm đã đến, người đệ tử hướng dẫn có thể đề xuất đến Chân sư thu nhận người đệ tử trong Ánh Sáng thành đệ tử thực thụ. Điều kiện cho việc này bao gồm trong các điều: nhiệt tâm của người đệ tử trong Ánh sáng, nghiệp quả của người đó, âm thanh (note) mà người đệ tử trong Ánh sáng phát ra đã đạt đến một mức độ nào đó, cộng vào đó người đệ tử hướng dẫn thấy rằng người đệ tử trong ánh sáng có thể bước vào giai đoạn đệ tử thực thụ.
  5. Trong giai đoạn đệ tử trong Ánh sáng, người đệ tử hướng dẫn tiếp xúc và ảnh hưởng lên người đệ tử trong Ánh sáng từ mức độ của linh hồn.Tuy nhiên, hiện nay người đệ tử cũng có thể trực tiếp tiếp xúc và hướng dẫn người đệ tử trong Ánh sáng trên cõi trần. Hai giai đoạn tiểu đệ tử và đệ tử trong Ánh sáng tạo thành giai đoạn đệ tử dự bị mà hội Thông Thiên Học nói đến.
  6. Trong bản dịch Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên mới của mình, Dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt không phân biệt giữa energy (năng lượng) và force (mãnh lực, thần lực). Hai từ này đức DK dùng với nghĩa khác nhau. Có thể hiểu energy xuất phát từ thể cao, còn forcelực trong thể thấp. Đương nhiên “cao” hay “thấp” có ý nghĩa tương đối, tùy trình độ của người đang được nói đến. Do đó, energy và force thay đổi tương đối theo ngữ cảnh. Khi bạn đọc đến đoạn Ngài nói sau đây bạn nên hiểu theo ý nghĩa đó:Đừng quên rằng Đạo Viện là một vòng xoáy mãnh lực và một trung tâm năng lượng xuyên qua đó cả hai mãnh lựcnăng lượng luân chuyển để thể hiện viễn ảnh tương lai. Sức mạnh và năng lượng này được điều khiển bởi một vị Chân Sư, một nhóm ba vị Đạo Đồ cao cấp và một nhóm khác nữa gồm những vị Đạo Đồ ở cấp thấp hơn. Cách sắp đặt ấy tiêu biểu cho một tổ chức quản trị hành tinh tiểu quy mô ở cấp Đạo Viện, mục đích chuyển di năng lượng xuống cho các đệ tử chính thức có thể sử dụng và phân phối một cách an toàn. Năng lựơng mà các Chân Sư sử dụng đến từ SHAMBALLA, còn những sức mạnh mà các Ngài dùng để hoạt động là do Thánh đoàn cung cấp.

    Forget not, an Ashram is a vortex of force and a centre of energy—a centre through which both force and energy flow in [731] order that the vision may be materialised. This force and energy is, in the last analysis, directed by a Master, by a group of three senior initiates and by another group of lesser initiates, thus representing (in each Ashram) a miniature of the planetary government. These step down the inflowing energy so that accepted disciples can handle it safely and act as distributing agents. The energy with which the Masters work comes from Shamballa; the forces with which They work are provided from within the Hierarchy itself, and just in so far as the accepted disciples react to the combined forces will it be possible for them to be used in service

  7. Trong bài, có những câu thật sâu sắc, nhưng cũng có những đoạn đầy tính biểu tượng khi Ngài dịch từ kinh văn cổ. Ví dụ:
  • Các Chân Sư không coi những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ nhất như là những vị Đạo Đồ. Đó là một điểm cần nhấn mạnh lại. Những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ hai được coi như “Đạo Đồ dự bị” và chỉ khi nào họ được điểm đạo lần thứ 3, họ mới thật sự là những vị Đạo Đồ theo quan điểm của Thánh đoàn.
  • Nếu người đệ tử “Trong ánh sáng” thật sự có nhiệt tâm và cố gắng phát triển sự nhạy cảm tâm linh, thì giai đoạn này có thể tương đối rút ngắn, đôi khi chỉ trong hai kiếp cũng đủ.
  • Nhiệm vụ của người đệ tử cao cấp là hướng dẫn người “Đệ tử trong ánh sáng” trong việc điều chỉnh nghiệp quả của y. Người đệ tử cao niên ấy làm công việc này bằng cách gieo ấn tượng bằng tư tưởng. Tất cả mọi nghiệp quả khi đương đầu một cách ý thức, được kích hoạt bằng quyền năng của tư tưởng.
  • Ngày nay chính các đệ tử của thế gian chớ không phải người đời làm ngăn trở sự giáng trần của Đấng Hóa Thân và làm vô hiệu hóa ý định của Ngài. Ngài không dám xuất hiện cho đến khi nào những đệ tử và Đạo sinh trên thế gian đã thực hiện nơi họ những sự thay đổi cần thiết vì lý do “không có đủ ý chí ban rải tình thương”.
  • Chân Sư không hoạt động trên cõi trung giới như vài phái huyền môn thường nói. Đối với Ngài là những vị đã thắng đoạt ảo cảmảo tưởng, cõi trung giới vốn không hiện hữu. Nó chỉ là một ý niệm hư ảo của một thể trí thuộc loại trí-cảm, thể trí của người tầm đạo trung bình.
  • Chúng ta nhìn thấy nơi kẻ khác những gì đang ngự trị nơi lòng chúng ta, dẫu rằng việc đó không hề có, hoặc có nhưng ở một mức độ khác.

****************

Giai đoạn II – Người đệ tử trong ánh sáng — The Chela in the Light.

Đây là giai đoạn mà tâm thức của người đệ tử dự bị bận lo chế ngự ảo cảm (glamour) và chữa trị nhãn quang thiển cận, lệch lạc của con người đã bị chìm đắm trong cuộc đời vật chất, sắc tướng. Người ấy nay đang tập nhìn đời bằng một nhãn quang mới, chế ngự thế giới cảm xúc và hoạt động trong một hoàn cảnh mới, tức là cõi giới ánh sáng.

This stage is definitely one in which the consciousness of the probationer is occupied with the overcoming of glamour and the curing of the distorted, myopic vision of the man who has been immersed in the life of matter or form. He is now attempting to see the new vision, to control the world of emotional reactions and to work in a new medium, that of Light.

Chân Sư không hoạt động trên cõi trung giới như vài phái huyền môn thường nói. Đối với Ngài là những vị đã thắng đoạt ảo cảmảo tưởng, cõi trung giới vốn không hiện hữu. Nó chỉ là một ý niệm hư ảo của một thể trí thuộc loại trí-cảm, thể trí của người tầm đạo trung bình. Bởi vậy, trong giai đoạn này, người đệ tử được đặt dưới sự dìu dắt, chăm nom của một đệ tử tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng của ảo cảm, nhưng đồng thời đã ý thức được tính chất phù du, giả tạm của cõi trung giới.

The Masters do not work upon the astral plane. Certain schools of occultism teach that They do, but such is not the case. For Them (having overcome glamour and illusion) the astral plane is non-existent; it is but an illusory concept of the kama-manasic type of mind—the mind of the average aspirant. The chela is, therefore, at this stage guarded and guided by someone who is still subject to glamour, but is, at the same time, aware of the ephemeral nature of the astral plane.

Đây là giai đoạn của nhiều Đạo sinh trên thế gian ngày nay, cho nên, trước khi nói qua những vấn đề khác, tôi muốn nói về tính chất của các công việc mà các sư phụ đang muốn thực hiện với những nhóm đệ tử trong thời kỳ khủng hoảng của thế giới hiện tại. Đó là một vấn đề tối quan trọng cho thế giới theo quan điểm của các Chân Sư. Đừng bao giờ quên rằng trong tất cả sự thảo luận và tìm hiểu về Đạo lý giữa chúng ta, và trong tất cả nỗ lực của chư môn đệ để hiểu được, tôi vẫn cố gắng tối đa để trình bày quan điểm của Thánh đoàn một cách giản dị và vừa tầm hiểu biết của người Đạo sinh trung bình.

This stage involves so many aspirants in the world today that (before I proceed with other matters) I would like to touch upon the nature of the work which the Masters are seeking to do with Their groups of disciples in this hour of world crisis. This is a matter of paramount importance to the world from the angle of the Masters Themselves. Never forget that in all our discussions and in all your effort to understand, I am endeavouring to decentralise you by giving you, as far as I can, the point of view of the Hierarchy, stepping it down until it can come within the range of comprehension of the average aspirant. [720]

Đối với những Đạo sinh này, các Chân Sư luôn luôn cố gắng khơi động ngọn lửa tinh thần nơi họ để cho họ có thể tiếp dẫn ngọn lửa thiêng ấy cho thế giới. Trong thời kỳ hiện tại, thế gian đang chìm đắm dưới những ngọn lửa thiêu đốt của sự phán xét và của vật chất, của nghiệp quả và công cụ của nó là vật chất. Chư môn đệ đều biết rõ, phải dùng lửa để trị lửa, và muốn dập tắt cái hỏa ngục cuồng loạn đang tàn phá thế giới ngày nay, thì cái đối tượng phải là ngọn lửa tinh thần mà các đệ tử phải biết sử dụng và phân phối một cách hiệu quả. Nhiệm vụ của SHAMBALLA đối với Thánh đoàn cũng có tính chất giống như thế, nhưng biểu lộ trên một bình diện cao cả hơn. Các Đấng Cao Cả ban rải ngọn lửa tối hậu của Ý chí. Xét cho cùng, ngọn lửa mà các đệ tử trên thế gian phải sử dụng là ngọn lửa của Ý-chí-hướng-đến-tình-thương (Will-to-love). Ngọn lửa này không phải như chư môn đệ tưởng nghĩ.

As far as these aspirants are concerned, the one thing which the Masters are endeavouring to bring about is the stimulation of the flame of the spirit in them so that they may set the world on fire. The fires of judgment and of substance, of karma and its vehicle, matter, are raging in the world at this time. Fire must be countered by fire, as well you know, and to stop the raging inferno of fire which is today devastating the world, the fire of spirit must be opposed, distributed and effectively used by the disciples of the Masters. The task of Shamballa, in relation to the Hierarchy, is similar in nature but expresses itself upon a higher level. They dispense the ultimate fire of the Will. The fire which must, in the final analysis, be used by the disciples in the world is the fire of the will-to-love. This fire is not what you think it is

Ý-chí-hướng-đến-tình-thương có nghĩa là tình thương của Cái Toàn Thể lớn hơn và khả năng làm những gì cần kíp vì lợi ích tập thể theo đường lối đúng đắn và với sự khôn khéo cần thiết trong hành động. Nó gồm có khả năng hành động quyết liệt khi cần, bởi vì người đệ tử có một tầm nhãn quang rộng lớn và không bị lạc hướng bởi cái cái nhìn thiển cận. Y hoạt động và chuẩn bị cho tương lai. Nói cách khác, chính là ý định đầy tình thương, muốn thiêu đốt cả thế gian với cái ý niệm mới về “tinh thần tương quan”, bắt đầu từnhân người đệ tử, gia đình và nhóm bạn đồng môn tiếp cận của y. Đó là ý-chí-hướng-đến-lửa-thiêu-đốt (will-to-fire). Chư môn đệ cần suy gẫm về điều này. Muốn thực hiện sự khích động nẩy lửa đó một cách hữu hiệu, người đệ tử phải áp dụng ngọn lửa đó ở tự bản thân, và trong ánh sáng lửa đó y tự nhận xét thấy chân tướng của mình. Ngọn lửa của khía cạnh vật chất (tức lửa của phàm ngã) hãy còn quá mạnh và ngự trị đời sống của người Đạo sinh. Nó làm cho cuộc đời họ bất hảo. Hãy nhớ rằng ngọn lửa của trí tuệ là phản ảnh lệch lạc của ngọn lửa tinh thần. Vài đệ tử chỉ dùng ngọn lửa trí tuệ. Trong những lúc ngẫu hứng tốt lành, cao thượng nhất, họ thử dùng ngọn lửa tình thương để chế ngự ngọn lửa của cái trí phê bình, phân tích, nhưng đó không phải là tình thương tuôn tràn một cách tự nhiên mà là một sự cố ý làm ra vẻ dịu dàng, ưu ái, một sự khắc kỷ, tự kềm chế một cách vất vả để tránh không thốt ra những lời nói chỉ trích bất hảo do cái trí phê bình làm chủ động, hoặc tránh không hành động theo tư dục hay ý riêng mà ngọn lửa trí tuệ đã tạo ra cho họ. Ngọn lửa này luôn luôn được nhắm vào một bạn đồng môn và sự cố tránh việc dùng ngọn lửa ấy đương nhiên tạo ra một hố sâu hay một bức rào ngăn cách. Trong phần nhiều Đạo sinh, không hề có sự biểu lộ tình thương chân thật, mà chỉ có nhiều cố gắng của phàm ngã để tránh sự chỉ trích. Họ chuyên tâm cố gắng không chỉ trích bởi vì điều này vốn là một nhu cầu căn bản và được thừa nhận, và đó là một thái độ đúng đắn và đáng được khen thưởng, khích lệ, nhưng sự chuyên tâm ấy không căn cứ trên những hậu quả gây ra cho kẻ khác khi ngọn lửa trí tuệ tác hại buông lung với những ảnh hưởng tàn phá, hủy diệt nó.

The will-to-love means the love of the greater Whole and the ability to do that which is needed for the good of the group in the right way and with the needed skill in action. It involves capacity for firm action where need arises, because the disciple has a long range vision and is not misled by the immediate perspective. He works and prepares for the future. It is, in other words, the loving intention to fire the entire world with the new idea of the “spirit of relationship,” beginning with the disciple’s own self, his family and immediate group. This is the will-to-fire. It would be well to reflect deeply on these ideas. To bring about and render effective this fiery stimulation, the disciple must apply the fire to himself and in the ensuing blaze see himself as he truly is. The fire of the material aspect (the fire of the personality) is still too prevalent and too powerful in the lives of aspirants. It renders them harmful. I would remind you that the fire of the mental plane (that is, of the mind) is the reflection (and the distorted reflection) of the fire of spirit. Some disciples use only the fire of the mind; in their highest and best moments, they attempt to use the fire of love to offset the fires of the critical mind but at the best it is no spontaneous flow but a laborious effort to be nice, to refrain (through drastic disciplining of themselves) from uttering the things which their critical minds say or to act upon the opinions they may have formed through the use of the fire of mind. This fire is always directed at a brother and the effort to refrain from [721]the use of this fire inevitably creates a gap or barrier. Among the majority of aspirants, there is no true love in action but only much personality effort to be non-critical. Their concentration is upon the recognised and basic need to be non-critical because it is right so to be, and there is a reward for those who achieve it, but the concentration is not based upon the effects upon others when the fire of the mind is let loose with its destroying, burning and damaging effects.

Bởi vậy, các Chân Sư mong muốn “thiêu đốt người đệ tử trong ngọn lửa ý-chí-hướng-đến-tình-thương để cho y được tự do và để phá tan những bức rào ngăn cách sự lưu nhập của nguồn thần lực của đấng hóa thân. Tại sao vậy? Bởi vì ngày nay chính các đệ tử của thế gian chớ không phải người đời làm ngăn trở sự giáng trần của Đấng Hóa Thân và làm vô hiệu hóa ý định của Ngài. Ngài không dám xuất hiện cho đến khi nào những đệ tử và Đạo sinh trên thế gian đã thực hiện nơi họ những sự thay đổi cần thiết vì lý do “không có đủ ý chí ban rải tình thương”. Khi nào ý chí ban rãi tình thương xuất hiện thì có hai việc xảy ra:

The Masters are, therefore, anxious to “burn up the disciple in the fire of the will-to-love so that he is set free and the barriers to the inflow of the avataric force may be dissolved.” Why is this? Because it is the disciples in the world and not the mass of men who today hinder the Coming of the Avatar and render useless His intention. He dare not come until the disciples and aspirants in the world bring about the needed changes in themselves, for the reason that there would not be “enough of the will-to-love with the fiery essence.” Where that will is present two things can take place:

1) Có thể có sự ban bố thần lực trong dịp  Đức Chưởng Giáo lâm phàm để trợ giúp sự tiến hóa tâm linh nhân loại.

2) Đức Chưởng Giáo và những Đấng Cao Cả phụ bậc dưới quyền pháp và ảnh hưởng của Ngài sẽ được cung ứng một nhóm đệ tử, họ có thể:

  1. Ứng đáp một cách thông minh với ảnh hưởng trên, nhận ra và hấp thu được nó.
  2. Phân phối thần lực thiêng liêng tuôn xuống.
  3. Giải thích cho nhân loại hiểu rõ những động lực mới, có tác dụng đem lại một nhãn quang mới, một trật tự thế giới mới và những lý tưởng của Kỷ Nguyên Mới.

Chừng đó, sẽ có rất nhiều “đệ tử trong Ánh Sáng” và các đệ tử ở các cấp bậc khác xuất hiện.

  1. There can be the needed stepping-down of the inflowing energy which the Avatar would bring with Him so that it can be rendered effective in humanity.
  2. The Avatar and Those Who are working with Him and under His influence can be provided with a group which can:
  3. Respond intelligently to that influence, recognising it and absorbing it.
  4. Distribute the inflowing energy.
  5. Interpret to humanity the new impelling forces which are occupied with the precipitation of the new vision, the new world order and the New Age ideals.

There will then be very many chelas in the Light and on the other graded steps of discipleship.

Hiện nay, nhiều người đã có cái nhãn quang linh cảm được ảnh hưởng về công việc của Đức Hoá Thân trong tương lai. Đó là một triển vọng một cuộc Đại lâm phàm, có tác dụng chấm dứt mọi sự xung động, phiền não, khai mở một Kỷ Nguyên Mới của hòa bình và thiện chí, xoa dịu các tâm hồn đưa nhân loại vào một thế giới mỹ lệ và hạnh phúc. Ngài sẽ thể hiện ước mơ của nhân loại. Ngài sẽ thương yêu và trợ giúp một cách thầm lặng những người con ngoan của Ngài và sẽ quét sạch những kẻ bất hảo ra khỏi mặt đất để cho chúng khỏi làm xáo trộn trở lại nền hòa bình thế giới. Ngài sẽ là người an ủi của nhân loại khổ đau.

The vision which many have of the influence and work of the Avatar is that of a Great Appearance which will end all strife, inaugurate the new era of peace and goodwill, soothe the hearts of the people and lead mankind into realms of beauty and of happiness. He will be the consummation of the [722] wishful thinking of countless minds down the ages. He will be the solace of distressed humanity. He will sweetly love and quietly deal with His Own people and will sweep the evil doer out of the Earth and prevent him from again molesting the peace of the world.

Tuy nhiên, tôi có thể nói với bạn rằng đó không phải là cái viễn ảnh thật sự sẽ xảy ra. Nó căn cứ trên những giải thích thần học và sự ích kỷ của loài người. Nó căn cứ trên sự lầm than của nhân loại và sự thất bại của các Đạo sinh và đệ tử ở khắp mọi nơi không nhận thức được tính chất thật sự của tình thương và viễn ảnh thực sự của Kế Hoạch của Thánh Đoàn.

I tell you that such a picture does not enter into the vision of reality at all. It is based on theological interpretations and human selfishness; it is founded on the misery of mankind and on the failure of disciples and aspirants everywhere to grasp the true nature of love and the real vision of the hierarchical Plan.

Ngài sẽ đem lại Ngọn Lửa Bác Ái. Ngài sẽ rao truyền thông điệp của ngọn lửa tinh luyện. Ngài sẽ không rao giảng về “nước tẩy trần” như nó vẫn là cái biểu tượng được truyền dạy từ trước tới nay, mà sẽ truyền giảng ngọn lửa thiêu đốt và hủy diệt tất cả mọi chướng ngại trong tính chất con người, mọi bức rào ngăn cách giữa người nọ với người kia, giữa các đoàn thể và giữa các quốc gia. Với tư cách là những cá nhân, những đệ tử và Đạo sinh, chư môn đệ có sẵn sàng đặt mình dưới sự thiêu đốt của ngọn lửa ấy chăng?

It is the Fire of Love which He will bring; it is the message of the purificatory fire which He will sound; He will not teach anent the waters of purification, as has hitherto been the symbolic imparted truth; He will impart the fire which burns and destroys all barriers in man’s nature, all separating walls between individuals, between groups and between nations. Are you prepared as individuals, as disciples and aspirants to submit yourselves to this fire?

Khi một người trở nên đệ tử “trong ánh sáng” sẽ xảy ra vài biến chuyển giúp y nhìn thấy cái triển vọng đó rõ ràng hơn và biết mình phải làm gì, bởi vì Ánh Sáng sẽ tiết lộ mọi sự. Những biến chuyển đó là:

When a man becomes a chela in the Light, certain developments take place which enable him to see the vision more clearly and to know what he must do, for the Light ever reveals. These are:

1) Người Đạo sinh chuyển di tâm thức từ cõi trung giới lên cõi trí, và trong khi đó, người đệ tử đỡ đầu sẽ đem đến cho y sự trợ giúp và hướng dẫn cần thiết.

2) Người Đạo sinh tập phân biệt rõ ràng những cặp mâu thuẫn, đối tượng nhị nguyên.

3) Người Đạo sinh bắt đầu ý thức được những ảo cảm mà cuối cùng y phải tự giải thoát ra khỏi chúng và phải trợ giúp thế gian thoát khỏi móng vuốt của nó.

  1. The aspirant makes a transition in consciousness from the astral plane to the mental and, in effecting this, the senior helping chela gives definite aid and guidance.
  2. The aspirant learns to distinguish, eventually infallibly, between the pairs of opposites.
  3. The aspirant becomes aware of glamour as something from which he must eventually free himself and aid in freeing the world.

Ba loại biến chuyển này đã được đề cập đến trong một Quyển Quy luật dành cho những đệ tử trên đường dự bị. Các qui luật này có thể tạm dịch sang Anh ngữ hiện đại như sau:

These three stages have been dealt with in a Book of Rules for disciples on the probationary path. The rule can be roughly translated into modern English as follows:

“Kẻ đi trên đường Đạo nhảy lên phía trước, rời bỏ thế giới của đời sống hay thay đổi … Y đã thực hiện bước chuyển quan trọng và bỏ lại thủy lộ sau lưng. Y đã bước đi trên mặt nước mà  không bị chìm trong làn nước. Người đệ tử trong Ánh sáng cầm tay dắt y đi từ Ánh sáng đến Ánh Sáng lớn lao hơn.

Đây là giai đoạn Chuyển tiếp trên tiểu lộ chuẩn bị đưa đến con đường cao cả hơn.

“The one upon the Way leaps forward, leaving the world of fluid life. He makes the great transition and leaves the watery way behind. He walks upon the water and is [723] not submerged therein. A chela with a light leads him by the hand from light into a greater Light.

“This is a Transition upon the lesser way, preparing for a higher.

“Kẻ đi trên đường Đạo bắt đầu ý thức được cái này và cái kia. Các cực xuất hiện. Cả hai thu hút cuộc sống hằng ngày của y, trước tiên là cái này, sau đến là cái kia. Y chao đảo giữa hai cực. Y phải thực hiện một sự Biến đổi; hai cái thành một. Y tiến một bước về sự hợp nhất. Y tiến bước về phía trước giữa hai đối đải nhị nguyên. Một đệ tử trong Ánh sáng rọi ánh sáng lên hai bên lối đi, nhờ thế người tiểu đệ tửthể bước đi.

Đây là giai đoạn Biến đổi trên con đường nhị nguyên dẫn đến Đường Đạo.

“The one upon the Way becomes aware of this and that. The poles appear. The two attract his daily life, first one and then the other; betwixt the two he moves. A transformation must be wrought; the two become as one. A step towards unity takes place. Between the two he forward steps. A chela in the Light throws light on either side and thus the little one can walk.

“This is a Transformation upon the dual way, leading into the Way.

“Kẻ đi trên đường Đạo đưa mắt nhìn quanh và thấy cuộc đời như trong làn sương mù. Các làn sương mù của ảo cảm che phủ các thung lủng và đỉnh đồi của cuộc sống. Người đệ tử phải xua tan các sương mù này. Y phải chuyển hoá chúng bằng các tia ánh sáng chói chan đốt cháy. Một đệ tử trong Ánh sáng rọi ánh sáng rực lửa, đốt cháy để xua tan làn sương mù che phủ.

Đây là giai đoạn Chuyển hoá. Những ngọn lửa này giải thoát ánh sáng tiềm ẩn và hoà nó với ánh sáng lớn hơn.

“The one upon the Way gazes around and sees life as through a haze. The fogs and mists of glamour rest upon the valleys and the hills of life and these he must dispel. He must transmute them through the burning rays of radiant light. A chela in the light directs the burning, fiery light which dissipates the enervating fog.

“This is the Transmutation. These fires release the hidden light and blend it with the greater.”

Như thế,  Những bài học đầu tiên trong ba cuộc diễn biến này được truyền thụ cho “người đệ tử trong ánh sáng” dưới sự hướng dẫn của một đệ tử cao cấp đã tiến hóa hơn nhiều, tuy chưa đắc quả Chân sư (adepts). Trong khi đó người Đạo sinh vẫn không hay biết rằng Chân Sư đang chú ý đến y. Sư phụ vẫn nhận được những báo cáo thường xuyên của vị đệ tử cao cấp có nhiệm vụ chăm sóc giúp đỡ y. Chính do điều này mà nhiều mối liên hệ cấp đẳng được thiết lập, và sau đó, do việc làm công quả trong Đạo Viện của Chân Sư chứ không phải trên cõi thế tục mà những mối liên hệ đó được củng cố và là một trong các yếu tố tạo nên:

1- Sự kết hợp với Thánh đoàn

2- Mối tương quan chặt chẽ giữa nhân loại với Thánh đoàn

It is, therefore, under the guidance of a chela who is far more advanced than the chela in the Light (though not yet adept) that the first lessons in these three processes are learned. Whilst this is going on, the aspirant remains unaware of the Master’s interest in him. The Master is receiving regular reports (based on certain charts) from the senior disciple who has the neophyte in charge. It is in this way that many hierarchical relationships are established. When they are once established—through work in the Ashram of a Master and not focussed upon the physical plane—they are persistent and constitute one of the factors which produce:

  1. Hierarchical integrity.
  2. Eventual close relationship between humanity and the Hierarchy.

Trong hiện tại, số người đã có được mối liên hệ đó tăng gia rất nhiều và những đệ tử cao niên của các Chân Sư đang vô cùng bận rộn với việc huấn luyện Đạo sinh, cũng như với việc liên quan đến tình hình khủng hoảng của thế giới. Những Đạo sinh được huấn luyện trong khuôn khổ đó có một tầm quan trọng thật sự, vì họ là mầm mống của những người phụng sự thế gian trong tương lai. Công việc của những đệ tử cao cấp và Đạo Đồ gồm có ba loại chính và trong khi bận rộn với những công việc này, họ cũng học được rất nhiều. Ba loại công việc đó là:

  1. Thiết lập ảnh hưởng từ điển.
  2. Tạo mối tương quan viễn cảm.
  3. Thực hiện những cuộc điều chỉnh nghiệp quả căn bản.

At this time, there is a great increase in the number of people who are being thus related and the senior disciples of all the Masters Who take chelas are exceedingly busy with the training [724] of aspirants, as well as with the work entailed by the gravity of the world crisis. The aspirants thus trained are in reality the nucleus of the future world servers, and are consequently of real importance. The task of those thus engaged falls into three categories; as the senior disciples and initiates are thus occupied, they are themselves learning much. These three categories of work are:

  1. The establishing of magnetic influence.
  2. The setting-up of telepathic rapport.
  3. The making of basic karmic readjustments.

Công việc thứ nhất mà các đệ tử phải làm là thấu hiểu tính chất của những Đạo sinh mà họ có trách nhiệm hướng dẫn và thiết lập một khu vực ảnh hưởng để có thể hoạt động hữu hiệu và giao tiếp với Đạo sinh. Trong quá khứ mối liên hệ này là giữa linh hồn với linh hồn và do đó cần có một thời gian thông cảm lâu dài để cho trí óc người Đạo sinh có đủ thời giờ nhận định đối tượng một cách đúng đắn. Ngày nay phương pháp đó còn áp dụng trong nhiều trường hợp, nhưng nhiều vị đệ tử đỡ đầu còn đang thí nghiệm “dưới sự điều khiển của Chân Sư” trong việc tác động trực tiếp với người Đạo sinh trên cõi hồng trần, tức là tạo nên mối liên hệ về phàm ngã cũng như chân ngã. Đó là mối liên hệ khó khăn hơn nhiều, nhưng nó nằm trong kế hoạch mới, nhằm phát huy cố gắng của Thánh đoàn ra ngoài thế gian, mà tất cả những Đạo Viện ngoại tại đang tuần tự hình thành chỉ là một phần. Do phương thức này, người “đệ tử trong ánh sáng” tập nhận diện những vị thành viên của Thánh đoàn bằng cách nhận ra trước hết những vị đệ tử tiến hóa hơn y và tập nghe lời chỉ dẫn và gợi ý của những vị này một cách cẩn thận. Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng cần phải làm một cố gắng lớn lao dường nào để tạo nên mối tương quan mật thiết hơn giữa hai thành phần nhân loại và Thánh đoàn về cả hai phương diện chủ thể và khách thể.

The first task which confronts disciples is to arrive at an understanding of the nature of the aspirants for whom they have made themselves responsible and also to establish a zone or path of influence, so that they can be definitely useful and able to communicate with the aspirant. It might be pointed out that, in the past, such relationships were between soul and soul, and consequently required a long period of “bringing through” to adequate recognition in the mind and brain of the aspirant. Today, this method still persists in the majority of cases but many of these helping disciples are experimenting (under direction of their Master) in working directly with the aspirant upon the physical plane, thus involving personality as well as soul relation. This constitutes a far more difficult relationship but is a part of the new process of externalising the hierarchical effort of which all outer Ashrams (which are now slowly forming) are a part. By means of this, the chela in the Light is trained to recognise members of the Hierarchy by first becoming aware of disciples more advanced than himself and by learning to give due weight to their words and suggestions. You can see, therefore, how a great effort is being made to bring the two centres—Humanity and the Hierarchy—into a much closer rapport and relationship, both objectively and subjectively.

Tất cả những người nào trong kiếp này từ giai đoạn “đệ tử trong ánh sáng” bước qua giai đoạn đệ tử chính thức, đều đã thực hiện được 2 điều:

1) Nhận diện được vị đệ tử cao niên mà họ đã phát hiện “trong ánh sáng”.

2) Nhận ra vị Chân Sư của mình. Toàn bộ vấn đề nhận ra Chân Sư sẽ được giảng giải sau.

All who have, in this life, transitted from the stage of chela in the Light to that of accepted disciple have established two recognitions:

  1. A recognition of the senior disciple whom they have discovered “in the Light.” [725]
  2. A recognition of the Master. This whole question of recognising the Master will be dealt with by me later.

Phương thức phát triển tương giao cách cảm (telepathic interplay) là một điều cần được nghiên cứu rất kỹ. Tất cả các nhóm đệ tử hoạt động trong hay ngoài một Đạo Viện, phải giao tiếp với nhau trong một sự tương quan viễn cảm mật thiết và như thế để tạo một môi trường huấn luyện cho sự khai mở loại năng khiếu này. Điều trước nhất cần phải có giữa một nhóm đệ tử là tình thương và sự tín nhiệm lẫn nhau, vì nếu không thì không thể nào có sự chuyển di tư tưởng thật sự. Nhóm nào không có được 2 điều kiện này thì nhất định phải cố gắng tập cho được.

The consequent developing process of telepathic interplay is one which should be most carefully studied. All groups of disciples, working in or out of an Ashram, should be in close telepathic rapport and thus provide a training ground for the development of this type of sensitivity. The first thing that has to be established in a group of disciples is love and trust, for without that there can be no true transference of thought. Where love and trust do not exist, they must be definitely and consciously developed.

Quy luật thứ hai là tuyệt đối tránh mọi sự chỉ trích, phê bình nếu muốn có được một tiết điệu điều hóa cần thiết trong nhóm. Trong bất cứ nhóm đệ tử nào cũng có những kẻ không biết đặt vấn đề theo thứ tự ưu tiên. Họ đặt nhiều việc và nhiều người lên hàng đầu, trước những bổn phậntrách nhiệm tâm linh của họ. Điều này đương nhiên tạo ra cho các bạn đồng môn các cơ hội (nhìn bề ngoài thì đúng) chỉ trích. Có khi sự chỉ trích đó mặc nhiên là  việc nhìn nhận sự thật. Điều đó có nghĩa là người đệ tử chỉ trích đã đạt tới điểm mà sự xét đoán của y căn cứ trên tình thương đến nổi nó không gây nên ảnh hưởng va chạm thuộc về phàm ngã trong đời y hay trong đời của người bạn đồng môn. Đó chỉ là sự nhìn nhận một khuyết điểm do tình thương chủ động và nó chỉ trở nên một điều quấy khi nào những việc ấy được dùng để khêu gợi sự chỉ trích của những kẻ xấu hạnh và đặt thành những vấn đề tranh luận. Người đệ tử hay Đạo sinh có những lỗi lầm rõ rệt và không chịu sửa đổi, tạo nên một bức tường rào ngăn cách mà y vào thời điểm thích hợp phải cố gắng phá hủy bằng cách loại trừ mọi nguyên nhân khả dĩ tạo cơ hội chỉ trích. Bức rào chướng ngại này ngăn trở sự giao liên cách cảm.

A second rule governs this telepathic relationship and this is that all “crises of criticism” must be most carefully avoided by all disciples if they want to bring about the needed rhythm. In any group of disciples, there are those who do not put “first things first”; they put many things and people before their duty and spiritual responsibilities; this necessarily gives their fellow disciples just grounds (apparently just) for criticism. There are times when criticism is unquestionably a recognition of fact. This means that a criticising disciple has reached the point where his judgment is so based on love that it produces no personality effect in his own life or that of his fellow disciple. It is simply a loving recognition of limitation and only becomes wrong when these undoubted facts are used to arouse criticism in the unqualified and provide points for discussion. The disciple or aspirant who has glaring faults and who fails to make the required changes himself creates a barrier which he must in time destroy by removing all causes for criticism. These barriers prevent free telepathic communication.

Đến đây một câu hỏi lý thú có thể được nêu ra: những đệ tử hoạt động phải cố gắng vượt lên để theo kịp những đệ tử tiến hóa hơn trong nhóm, hay là họ phải trì hoãn sự tiến bộ của họ và hạ thấp xuống cho vừa tầm mức của những kẻ chậm tiến hơn? Câu hỏi đó là vấn đề căn bản trong những Đạo Viện và chỉ có các đệ tử mới có thể trả lời.

An interesting question can he asked at this point and one which should unquestionably arise: Is the group of working disciples to be keyed to the note of the more advanced disciples in the group or is it to be stepped down to a generally lower average to suit the least advanced? Let us put it in another form: Are the least evolved in a group of disciples and aspirants to pull down to their level of work and understanding the more developed? Will they make a supreme effort to measure up to the higher vision and attain to the attitudes and points of view of the more advanced? These questions prove a fundamental [726] problem in all Ashrams and only the chelas themselves can provide the answer.

Về vấn đề điều chỉnh nghiệp quả, người đệ tử hướng dẫn phải biết vài điều cần yếu. Y phải biết chắc người Đạo sinh được y bảo trợ còn phải trả quả báo gì trong kiếp hiện tại. Khi đó y phải khuyến cáo người Đạo sinh chịu thêm vào cái định nghiệp đó, cái gọi là “Nghiệp quả giải phóng”. Đó là phương pháp cưỡng ép mà người đệ tử nào muốn chọn con đường điểm đạo khó khăn hơn phải tự nguyện gánh vác do bởi ý chí tự do của mình. Người đệ tử trong ánh sáng cố gắng thực hiện những điều sau đây:

  1. Y trả dứt cái định nghiệp của kiếp này một cách thông minhý thức đến mức tối đa.
  2. Y chịu trả thêm vài loại quả báo mà đáng lẽ chỉ đến với y trong một kiếp tương lai.
  3. Y bắt đầu gánh vác ít nhiều nghiệp quả chung của nhân loại và như thế tăng thêm nghiệp quả của mình.
  4. Y bắt đầu hợp tác và tìm hiểu về nghiệp quả của thế gian, tuy rằng y chưa gánh vác trách nhiệm gì về vấn đề này. Sau 2 lần điểm đạo, y mới hợp tác một cách ý thức và trên cương vị cá nhân, với trách nhiệm về nghiệp quả của Đấng Tinh Quân cai quản bầu thế giới hiện tại.

In the mastering of the task of karmic adjustment, the guiding disciple is governed by certain requirements. He must ascertain just what karma must be worked out by the aspirant in his charge, during this incarnation. He must then induce him to add to this established karma, what I might call “freeing karma.” This is a part of the forcing process to which those who choose the more difficult way of initiation must subject themselves, voluntarily and by free choice. The disciple seeks to do certain things in this connection, referring here to the chela in the Light:

  1. He works off unavoidable karma as intelligently and consciously as possible.
  2. He takes on some karma which ordinarily would be precipitated in some later life.
  3. He begins to shoulder some of the general karma of humanity, thus increasing his own load of karma.
  4. He begins to work with and to comprehend something of planetary karma, though as yet he undertakes no responsibility in this connection. Only after the third initiation does he consciously and as an individual cooperate with the karmic responsibility of the planetary Logos.

Tôi muốn nói rõ rằng tôi đang đề cập đến nghiệp quả tốt cũng như xấu. Nhiệm vụ của người đệ tử cao cấp là hướng dẫn người “Đệ tử trong ánh sáng” trong việc điều chỉnh nghiệp quả của y. Người đệ tử cao niên ấy làm công việc này bằng cách gieo ấn tượng bằng tư tưởng. Tất cả mọi nghiệp quả khi đương đầu một cách ý thức, được kích hoạt bằng quyền năng của tư tưởng. Đây là một bài học lớn mà người đệ tử cao niên phải dạy Đạo sinh. Bằng cách đó người Đạo sinh được trợ giúp nhìn thấy “Trong ánh sáng” những gì y còn phải gặp trên bước đường của mình và người đệ tử cao niên chuẩn bị cho y bước vào giai đoạn đệ tử chính thức vẫn tiếp xúc thường xuyên với Chân Sư. Như thế một mối liên hệ hình tam giác được thiết lập và có một giá trị huyền môn nhất định.

I would here like to point out that I am referring to good karma as well as bad. It is the task of the helping disciple to guide the chela in the Light so that he does adjust his karma. This the senior disciple does by thought impression. All karma, when consciously faced, is precipitated by the power of thought; this is perhaps the major lesson which the senior disciple has to teach the neophyte. In this way the latter is aided to see “in the light” which falls upon his way, and the disciple who is preparing him for the stage of accepted discipleship is in constant touch with the Master. Thus a triangular relationship is set up which is of occult value.

Nếu người đệ tử “Trong ánh sáng” thật sự có nhiệt tâm và cố gắng phát triển sự nhạy cảm tâm linh, thì giai đoạn này có thể tương đối rút ngắn, đôi khi chỉ trong hai kiếp cũng đủ. Người để tử trong ánh sáng là người bước đi trên con đường được gọi là “sự mặc khải nhỏ”. Gọi là “mặc khải nhỏ” vì nó liên quan đến sự tiết lộ những gì phải làm trong đời sống phàm ngã, chứ không phải là con đường của sự mặc khải lớn nhằm hiển lộ thiêng liêng và bản chất của thiêng liêng. Đó là sự tiết lộ những gì đã biểu hiện chứ không phải của những gì phải được biểu hiện. Hãy suy gẫm về điều này. Ngọn đèn pha của linh hồn soi rõ những lỗi lầm trong đức hạnh, những biểu hiện bất toàn, những bất cập trong hạnh kiểm. Những điều này phải được chỉnh sửa một cách khôn ngoan. Trong những đồ hình biểu tượng mà người đệ tử hướng dẫn trình cho vị Chân Sư mỗi năm hai lần nêu rõ những nỗ lực, chứ không phải kết quả, theo chiều hướng này. Chính nỗ lực cố gắng mới là quan trọng. Kết quả đương nhiên xảy đến, tương cứng với nỗ lực. Khi những đồ hình này (có ba đồ hình như thế) được xếp đặt tương quan và chồng từng cái một lên nhau, chúng chỉ rõ một kiểu mẫu Cung rõ rệt. Khi đó Chân sưthể đánh giá mức độ và loại phát triển của người đệ tử, và có thể quyết định thời gian cho phép người đệ tử cao niên đề xuất giai đoạn đệ tử chính thức. Khi nào mong ước của người đạo sinh, đề xuất của người đệ tử hướng dẫn, điều kiện nhân quả, và âm điểu mà Chân sư ghi nhận được trùng hợp với nhau, khi đó người đệ tử bước vài giai đoạn thứ ba.

If the chela in the Light is truly in earnest and is consciously developing the higher sensitivity, this stage can be relatively short. Two lives sometimes are sufficient to cover [727] this period. The chela in the Light is one who treads the way of what is called “the lesser revelation”—lesser because it is concerned with the revelation of that which must be done in the personality life; it is not the way of the higher revelation of divinity and its nature. It is the revelation of that which is already manifested and not of what must be manifested. Ponder on this. The searchlight of the soul reveals faults in character, limitations in expression and inadequacies in conduct. These must be intelligently corrected. In the symbolic charts which the guiding disciple presents to the Master twice a year, the effort made along these lines is indicated, not the results; it is effort which counts. The results will be inevitable and commensurate with the effort. When these charts (three in number) are geometrically related and superimposed one upon the other, they indicate a definite ray pattern. Then the Master can gauge the rate and type of development and can determine the time for authorising the senior disciple to recommend the stage of accepted discipleship. When the demand of the aspirant, the guiding disciple’s recommendation, the karmic condition and the note which the Master registers coincide in time, then the third stage is reached.

Tất cả những giai đoạn này đều có liên hệ đến công việc trong Đạo Viện, tới đời sống và sinh lực của nhóm nội tàng (inner group). Như chư môn đệ đã biết, nhóm này gồm có các vị đệ tử và Đạo Đồ cao niên và nhiều kinh nghiệm, cùng những Đạo sinh sơ cơ và những đệ tử ở những cấp bực tiến bộ cao thấp khác nhau trên đường đạo. Chính những thành phần đệ tử khác nhau đó đưa đến sự liên hệ hỗ tương giữa các Đạo Viện nội tại và ngoại tại, giữa nhóm đệ tử hoạt động ngoài thế gian và nhóm bên trong gồm thành phần đông hơn nhiều. Điều này đưa đến một câu hỏi thường xuất hiện trong trí của những người trong nhóm ngoại tại và liên hệ một cách rời rạc lỏng lẻo với nhóm bên trong. Mức độ tâm thức của Đạo Viện ngoại tại được quyết định bởi những thành viên của nhóm ấy hay bởi sự liên hệ của nó với toàn thể Đạo Viện mà nó chỉ là vật tương đối nhỏ? Khi câu hỏi ấy được một thành viên của Đạo Viện nêu ra nó chỉ là một sự bận tâm rõ rệt với những thành viên của nhóm, chứ không phải với cả nhóm như một khía cạnh của Đạo Viện của Chân Sư. Các đệ tử cần nhớ rằng một Đạo Viện không phải chỉ giới hạn trong số một vài người quen biết và có thể gặp gỡ nhau như những thành viên của Đạo Viện. Mỗi Đạo Viện là một nhóm Quốc tế gồm có những linh hồn đang chuyển kiếp hay chưa đầu thai. Nó là một sự tổng hợp những vị Đạo Đồ trên nhiều cấp đẳng và những đệ tử chính thức. Các Chân Sư không coi những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ nhất như là những vị Đạo Đồ. Đó là một điểm cần nhấn mạnh lại.

I would here again remind you that all these stages are related to work in the Ashram and to the life and vitality of the inner group. This group is composed, as you know, of old and experienced disciples and initiates and also of neophytes in various stages of development and also of disciples, passing through the many different stages of the Path. It is these widely different types of active disciples which bring about the inter-relation between the outer and the inner Ashrams, between the objective group upon the outer plane and the very much larger inner group. This brings me to a question which may quite normally arise in the minds of those working in the outer group and loosely related to the inner group: Is the level of the consciousness of the outer Ashram determined by the personnel of that group or by its relation to the whole Ashram of which it forms a relatively small part? When this question is posited by a member of an Ashram, it indicates a definite preoccupation with the personnel of the group and not with the group as an aspect of some Master’s Ashram. Disciples need [728] to remember that an Ashram is not confined to a few who may know each other and who may even meet together as Ashram members. An Ashram is an international group; it is composed of souls in incarnation and out of incarnation; it is a synthesis of initiates of various degrees and of accepted disciples. The Masters do not regard those who have taken the first initiation as initiates. This is a point which needs re-emphasis.

Những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ hai được coi như “Đạo Đồ dự bị” và chỉ khi nào họ được điểm đạo lần thứ 3, họ mới thật sự là những vị Đạo Đồ theo quan điểm của Thánh đoàn. Cuộc Điểm Đạo lần thứ nhất đôi khi được gọi là Điểm Đạo LEMURIA, cuộc Điểm Đạo thứ hai gọi là Điểm Đạo ATLANTIS, nhưng cuộc Điểm Đạo 3 “Điểm đạo ARYAN” lại được các Ngài coi như cuộc Điểm Đạo 1. Đây là khía cạnh mới mà chư môn đệ đã suy gẫm. Theo quan điểm trên, danh từ “Đệ tử chính thức” gồm luôn các giai đoạn Điểm Đạo thứ nhất và thứ hai. Khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ ba, y không còn là đệ tử chính thức nữa dù rằng y vẫn còn ở trong một nhóm của Chân Sư cho đến khi y đã có được 4 lần Điểm Đạo. Tôi muốn nêu ra những chi tiết đó để chư môn đệ có một ý niệm dứt khoát và rõ ràng.

Disciples who have taken the second initiation are regarded as “probationary initiates,” and only when they have taken the third initiation are they truly initiate from the standpoint of the Hierarchy. The first initiation is sometimes spoken of as the “Lemurian Initiation” and the second as the “Atlantean Initiation,” but the third initiationthat of our Aryan race—is technically regarded by Them as the first initiation. This is a new angle upon which I would ask you to think. The term, therefore, of Accepted Disciple covers the stages of the first and second initiations; when a disciple has taken the third initiation, he is no longer technically an accepted disciple, even though he still remains in a Master’s group until he has taken the fourth initiation. I am pointing out these technicalities so that there may be clarity and proportion in your thinking.

Bởi vậy, một Đạo Viện là nơi tiêu biểu cho tất cả mọi giai đoạn phát triển gồm từ những kẻ tiến hóa nhất cho đến những kẻ sơ cơ, như những người đang đọc những huấn từ này. Điều quan trọng cho mỗi đệ tử trong một Đạo Viện là nên chăng y nâng cao tâm thức của mình và ứng đáp với âm ba rung động của bầu không khí trong đó, để đừng làm ngăn trở những hoạt động của Đạo Viện? Hay là những vị Đạo Đồ và đệ tử tiến hóa cao nên ngưng tiến, trì hoãn hay hạ thấp mức độ hoạt động của mình chăng để chờ đợi những người thấp kém hơn, để cho những người này có thì giờ và cơ hội tiến lên cho bằng họ? Tóm lại, câu hỏi đó là liệu những đệ tử cao cấp phải chờ đợi, hay là những đệ tử sơ cơ làm ngăn trở tiến trình của Đạo Viện?

Tôi muốn bảo đảm với chư môn đệ rằng tiêu chuẩn để đo lường, cân nhắc không phải là ở một mực chắc nịch, chết cứng một chỗ, và những đệ tử sơ cơ nên biết rằng họ không thể làm chướng ngại cho nhóm đệ tử tiến hóa cao hơn trong Đạo Viện, nhưng họ có thể tự loại mình ra khỏi vòng hoạt động, tuy không ra khỏi nhóm. Chỉ có những người chưa sẵn sàng và đạo tâm chưa vững mới phải chờ đợi mà thôi, chứ không phải những đệ tử có đạo tâm bền vững và thật sự hiến dâng.

An Ashram is, therefore, representative of all stages of unfoldment, from the most advanced to beginners, such as those who read these instructions. The point of importance to each disciple in an Ashram is whether he can step up his consciousness and his conscious response to the ashramic vibration so that he does not hinder the planned activities of the Ashram. Must the senior and the more advanced initiate-disciples halt, or wait and step down their activities so as to give the less advanced the time and opportunity to measure up to them? The question therefore is: Do the senior disciples wait or do the junior disciples hinder?

I would assure you that the standard of measurement is not a dead level and I would assure beginners that they cannot hinder the advanced members of an Ashram, but that they can throw themselves out of the sphere of activity, though not out of the group. It is the unready and the untrained who do the waiting, not the ready and the truly dedicated. [729]

Nhiệm vụ của Sư phụ là khích động tối đa cho các đệ tử trong nhóm của Ngài thường xuyên hoạt động trên mức độ tâm linh, nơi mà ngọn lửa của Ý-chí-hướng-đến-tình-thương có thể khơi hoạt và thống trị. Một số đệ tử trong Đạo Viện hãy còn phải cố gắng công phu trong những giai đoạn đầu để tìm hiểu những hỏa lực của cái trí. Những ngọn lửa trí năng này cần phải được hiểu rõ trước hết và dập tắt trước khi ngọn lửa của ý-chí-hướng-đến-tình thươngthể thâm nhập vào người đệ tử.

The task of the Master is to stimulate as many as possible in His group to work consistently on levels of spiritual activity, wherein the fire of the will-to-love may animate and dominate. Frequently, a part of the Ashram is still struggling with the first stages in the task of understanding the fires of the mind; these must be first comprehended and their fiery essence quenched before the fire of the will-to-love can flow through the disciple.

Điểm cần phải hiểu rõ là công việc của Đạo Viện vẫn tiếp tục, các đạo đồ và đệ tử, với ngọn lửa thiêng bùng cháy trong tâm, vẫn tiếp tục hoạt động không chướng ngại. Điều này cũng nói luôn về phản ứng cá nhân đối với các thành viên của Đạo Viện. Nhưng khi mà tất cả nhóm đều bốc lửa với tình thương và sống như những linh hồn, thì chừng đó Đạo Viện trở nên một trung tâm năng lực vô cùng hữu hiệu. Các Chân Sư cố gắng thành lập những Đạo Viện là để thực hiện càng chóng càng hay sự hợp nhất giữa tình thươngý chí. Chỉ có kẻ sơ cơ mới bận tâm với những ảnh hưởng cá nhân của y trong Đạo Viện. Còn đệ tử được huấn luyện thành thục thì chú trọng nhiều hơn đến công việc phải làm và nhiệm vụ phải được xúc tiến mỹ mãn. Trên cương vị cá nhân, một đệ tử có thể đau lòng khi thấy các bạn đồng môn trong nhóm không hiểu hay không kiềm chế nổi ngọn lửa loạn động của trí não, nhưng y vẫn kiên tâm bền trí làm việc với tất cả hiệu năng của mình mà lòng không xao xuyến hay dời đổi. Y biết rằng với thời gian qua, có ngày họ cũng sẽ thoát khỏi sự vọng động của trí não như đã nói ở trên. Trong khi chờ đợi, y cố gắng hóa giải ảnh hưởng của họ, và cũng vì đó mà việc làm của y trở nên vất vả khó khăn hơn, nhưng y biết rằng họ cũng đang tiến bước trên con đường hiểu biết, thông cảm. Y cũng biết rằng hiện thời họ không làm gì khác hơn là nhìn thấy nơi y và thậm chí nơi cả Chân Sư nữa, chính những tính chất đang ngự trị trong tâm hồn họ. Chư môn đệ thân mến, đó là bởi vì chúng ta nhìn thấy nơi kẻ khác những gì đang ngự trị nơi lòng chúng ta, dẫu rằng việc đó không hề có, hoặc có nhưng ở một mức độ khác. Người đệ tử cần phải nhận định rõ sự dị biệt giữa khả năng phân tích bén nhạy và óc chỉ trích. Một Chân Sư không chỉ trích những thành viên trong Đạo Viện của Ngài. Ngài tìm cách phân tích dùm họ những điểm chướng ngại làm cho họ mất hiệu năng phụng sự trong công việc của Đạo Viện. Có một sự dị biệt lớn lao giữa sự trợ giúp một cách xây dựng đó và sự chỉ trích căn cứ trên cái ý thức tự tôn và ưa bươi móc lỗi lầm của kẻ khác.

The point to be grasped is that the work of the Ashram goes on and disciples and initiates (whose hearts are aflame) continue to work unimpeded. This covers the individual reaction to the Ashram personnel. But where all the group are aflame with love and are living as souls, then the Ashram becomes a vital centre or vortex of force and dynamically effective. The effort of the Masters Who work through the method of forming Ashrams is to bring about as rapidly as possible this unity of love and intention (will). It is only the beginner who is preoccupied with his individual effect in an Ashram. The trained, released disciples are more concerned with the task to be carried on and with the work to be done. An individual disciple may suffer in his personality as a result of the failure of his group brothers to understand or to arrest the fire of their minds, but he goes on steadily with the work and his personal effectiveness, as a serving unit, remains unaffected. He knows that some day they will be liberated from themselves. In the meantime, he labours to offset their influence and to this extent his task is harder, but he knows that they are on the way to understanding; he knows too that at present they cannot help but see in him and even in their Master the very qualities which are dominating them. For, my brother, we see in others what is in us, even when it is not there at all or to the same extent. Disciples need to learn the distinction between true analytical insight and so-called criticism. A Master does not criticise the members of His Ashram. He seeks to analyse for them the points wherein they may hinder the usefulness of the service of the Ashram. There is a basic distinction between this constructive aid and the criticism which is based on a sense of personal superiority and a love of fault finding. [730]

Mỗi vị Chân Sư đã đạt tới trình độ có một nhãn quang sáng suốt vốn là một ân sủng được ban ra cho những đạo đồ. Ngài tự đồng hóa với nhãn quang đó, tô điểm nó với màu sắc phong phú của Ngài và diễn đạt nó trong khuôn khổ sự đóng góp của của Ngài cho đoàn thể. Đó là bí quyết của cái nhãn quang vô chướng ngại, thể hiện qua các cố gắng hỗn hợp của Thánh đoàn, mà một Chân Sư hay một nhóm Chân Sư thực hiện trong thời giankhông gian trên cùng một cung nhất định hay trên nhiều cung khác nhau. Trong những ngày đầu tiên của chu kỳ cố gắng hiện tại của Thánh đoàn (trong khoảng giữa năm 1925-1936), nhân loại chịu ảnh hưởng sự tác động của cung 1. Tác động của cung này đến tột điểm với sự tuyên chiến của Anh Quốc năm 1939, khi lực lượng tàn phá của cung ấy, do sự lạm dụng và điều khiển sai lạc, làm cho Đức Quốc xâm lăng Ba Lan. Năm 1932, ảnh hưởng của cung 2 bắt đầu xuất hiện và sẽ tiếp tục cho đến năm 1945 khi cung 7 từ từ chuyển vận để nhập cuộc. Lúc ấy có 3 cung đồng loạt tạo ảnh hưởng đối với nhân loại:

Cung 1 (quyền lực / ý chí) tác động mạnh.

Cung 2 (Minh triết / Bác ái) đạt tới trung điểm và tác động cho tới năm 1957.

Cung 7 (Trật tự / Nghi thức) tác động hỗn hợp với 2 cung trên tạo nên sự mỹ lệ từ cơn hỗn loạn hiện nay.

Each Master has reached the point where the vision is clear to Him; this is part of the reward accorded to the initiate. He identifies Himself with it, colouring it necessarily, richly and helpfully with His ray “apprehension,” and interpreting it in terms of His contribution to the whole. Therein lies the secret of the inevitable and the unhinderable (is there such a word, brother of mine?) success of the vision as it is materialised through the combined efforts of the Hierarchy, conditioned in time and space by some Master or group of Masters, working on some one ray or rays. In the early days of the present cycle of hierarchical effort (between 1925 and 1936), the ray at work upon humanity was the first ray. The activity of this ray culminated in the declaration of war by Great Britain in 1939, when the destructive force of that ray—misapplied and misdirected—led Germany to invade Poland. In 1932, the influence of the second ray began to assert itself and will continue to do so until 1945 when the seventh ray will swing slowly into activity. You will then have three rays producing simultaneous effects upon mankind:

  1. The first Ray of Will or Power, expending its force.
  2. The second Ray of Love-wisdom, reaching its meridian and holding the centre of the stage until 1957.
  3. The seventh Ray of Ceremonial Order, coming into activity in combination with the other two—the will-to-love and the will-to-order—producing beauty out of the present chaos.

Bởi vậy những đệ tử của Chân Sư RAKOCZI đang bước vào thời kỳ hoạt động ráo riết. Vận mạng thế giới nằm trong tay ba nhóm đệ tử đã điểm đạo của các Ngài. Những đệ tử chính thức của ba nhóm ấy được yêu cầu hợp tác với các Ngài, và đó là cơ hội đưa đến cho nhiều đệ tử ở các nơi, vì họ cố gắng để tìm hiểu Thiên Cơ, hợp tác với ba vị Chân Sư và những nhóm Đạo Đồ của các Ngài, nên cơ hội được đưa đến cho họ. Lực lượng tam giác này được các Đấng Trưởng Thượng ở SHAMBALLA giao phó trách nhiệm điều chỉnh các việc thế sự. Ngoài những việc trên đây, nhân loại không được cho biết thêm điều gì nữa vì xét ra không cần thiết.

The disciples, therefore, of the Master Morya, of the Master Koot Hoomi and of the Master Rakoczi are reaching out towards a period of the intensest activity. The destiny of the world lies in the hands of Their three groups of initiated disciples; with Them, the accepted disciples of the three groups are asked to cooperate and this offers opportunity to many everywhere. As they seek to vision the Plan, to cooperate with the three Masters and Their initiate groups, their opportunity will emerge. This triangle of energy is held responsible by the great Leaders in Shamballa for the regularising of world affairs. More than this it is not necessary for humanity to know.

Đừng quên rằng Đạo Viện là một vòng xoáy mãnh lực và một trung tâm năng lượng xuyên qua đó cả hai mãnh lựcnăng lượng luân chuyển để thể hiện viễn ảnh tương lai. Sức mạnh và năng lượng này được điều khiển bởi một vị Chân Sư, một nhóm ba vị Đạo Đồ cao cấp và một nhóm khác nữa gồm những vị Đạo Đồ ở cấp thấp hơn. Cách sắp đặt ấy tiêu biểu cho một tổ chức quản trị hành tinh tiểu quy mô ở cấp Đạo Viện, mục đích chuyển di năng lượng xuống cho các đệ tử chính thức có thể sử dụng và phân phối một cách an toàn. Năng lựơng mà các Chân Sư sử dụng đến từ SHAMBALLA. Còn những sức mạnh mà các Ngài dùng để hoạt động là do Thánh đoàn cung cấp. Khi các đệ tử chính thức ứng đáp được với những sức mạnh hỗn hợp ấy, thì nó mới có thể được sử dụng trong việc phụng sự. Nói cách khác, các vị Đạo Đồ trong một nhóm của Chân Sư tiếp thu những năng lực đến từ bên ngoài. Còn các đệ tử chính thức, qua trung gian của linh hồn họ, tiếp thu và phân phối sức mạnh mà Chân Sư ban phát ra ngoài thế gian theo kế hoạch của Thánh đoàn, dưới sự mặc khải đến với các Ngài từ SHAMBALLA.

Forget not, an Ashram is a vortex of force and a centre of energy—a centre through which both force and energy flow in [731] order that the vision may be materialised. This force and energy is, in the last analysis, directed by a Master, by a group of three senior initiates and by another group of lesser initiates, thus representing (in each Ashram) a miniature of the planetary government. These step down the inflowing energy so that accepted disciples can handle it safely and act as distributing agents. The energy with which the Masters work comes from Shamballa; the forces with which They work are provided from within the Hierarchy itself, and just in so far as the accepted disciples react to the combined forces will it be possible for them to be used in service. In other words: the initiated disciples in a Master’s group focus the inflowing energies; the accepted disciples, through the medium of their souls, focus the force which the Master directs outward into the world of men in conformity with the Plan of the Hierarchy, working in accordance with the revelation, coming from Shamballa.

Những vị Đạo Đồ (đệ tử đã được điểm đạo) không thích thú điều gì khác hơn là viễn ảnh và sự thể hiện Thiên Cơ trên thế gian. Những đệ tử chính thức còn đang học hỏi những điều này và trong khi đó họ còn phải ứng đáp với viễn ảnh đó. Họ bận rộn với sự học hỏi Thiên Cơ và với việc phân phối các năng lực có tác dụng thể hiện Thiên Cơ.

Như thế, các hoạt động của Đạo Viện được hoàn toàn phối hợp chặt chẽ. Những đệ tử mới nhập môn còn đang học tập, hợp tác trong việc phụng sự cũng được sử dụng như những nhân viên thí nghiệm tùy theo phản ứng của họ đối với những chân lý được truyền dạy và đối với Thiên Cơ, tùy theo khả năng của họ ý thức được nhu cầu và ứng đáp với mọi nhu cầu và tùy theo khả năng hợp tác của họ với những đệ tử của thế gian (các vị này chịu trách nhiệm trực tiếp với Chân Sư về một khía cạnh nào đó của Thiên Cơ) mà họ sẽ thành công hay không trong cố gắng hoạt động của họ ngoài thế gian.

Initiated disciples have no interest in anything but the vision, the Plan and its direction and materialising upon earth. Accepted disciples are learning this and in the meantime have to react to the vision in what I might call a second hand manner; they are occupied with the Plan and with the distribution of the forces which will materialise it. Thus the entire activity of the Ashram is coordinated. Newly accepted disciples (who are only learning to cooperate) are valuable as “agents for experiment.” According to their reaction to the imparted truths and Plan, according to their ability to sense the need and to bring the need and the medium of release into relation and according to their capacity to work with the world disciples (who are definitely responsible to the Master

Như thế một lần nữa, quan niệm về cấp đẳng tương quan lại được nhắc nhở cho chư môn đệ phải chú ý. Trong thời kỳ nhiễu nhương này, chính việc điều hành những mối tương quan đúng đắn là bí quyết thể hiện khía cạnh tiếp cận của Thiên Cơ trên địa cầu chúng ta. Bởi vậy, Đạo Viện là một trung tâm thí nghiệm, thử thách các mối liên hệ tương quan đó.

Một câu hỏi giản dị được nêu ra: làm sao những mối tương quan đúng đắn có thể được thiết lập trên thế gian, nếu chính những đệ tử chính thức trong một nhóm của Chân Sư cũng không thể ứng đáp với ý niệm đó và duy trì giữa họ với nhau những mối tương quan đúng đắn một cách đồng loạt và không sai chạy. Trong hiện tại, vấn đề này gồm có 3 phương diện. Những mối tương quan đúng đắn đó phải được thực hiện.

Thus again the concept of the “Hierarchy of Relationship” is brought to your attention. In these days of world strife, it is this bringing about of right relations which presents the key to the immediate aspect of the vision which must be precipitated upon our planet. Therefore, an Ashram is a centre wherein relationship is tried out.

One simple question arises here: How can right relations he established upon earth if the accepted disciples in a Master’s [732] group are themselves unable to react to the idea and to preserve, among themselves, right relations, correctly, unanimously and unerringly? What hope is there for the outer world if the inner circle of workers (pledged disciples) are unable to establish and hold among themselves these right relations. At this time, the problem is threefold. These right relations must be fostered between:

Giữa những đệ tử chính thức, những vị Đạo Đồ và Chân Sư

Giữa những thành viên của một Đạo Viện với những Đạo Viện khác.

Giữa những Đạo Viện này với thế giới bên ngoài.

Vị Chân Sư của một Đạo Viện và những vị Đạo Đồ cao cấp trong nhóm  của Ngài chịu trách nhiệm về mối tương quan giữa SHAMBALLAThánh đoàn Những đệ tử chính thức và những Đạo Đồ cấp nhỏ hơn chịu trách nhiệm về mối tương quan liên hệ giữa mọi cấp đẳng được giữ gìn chặt chẽ và bất khả xâm phạm.

  1. Accepted disciples, initiate disciples and the Master.
  2. Between the members of an Ashram and other Ashrams.
  3. Between these Ashrams and the outer world.

The Master of an Ashram and the senior initiates in His group are responsible for the relation between Shamballa and the Hierarchy. Accepted disciples and the lesser initiates are responsible for the relation between the Hierarchy and Humanity. Thus the great chain of the Hierarchy of Being is preserved inviolate.

 

4624 — Tổng số lần đọc 4 — Hôm nay