Chia sẻ:
document.cookie=”kentopvc_2564=yes”;
THỂ HỒNG TRẦN (THỂ VẬT LÝ – THE PHYSICAL BODY)
***
Trong bài này và các bài tiếp theo, chúng ta lần lượt nghiên cứu ba thể thấp của phàm ngã là thể hồng trần, thể cảm dục và thể hạ trí. Trong khi nghiên cứu về các thể này, chúng tôi sẽ trích dẫn các giảng dạy của các nhà Thông Thiên Học, và từ giáo lý của Chân sư DK. Từ “thể” dùng để dịch chữ “body” trong tiếng Anh, là phương tiện mà con người nột tại (inner man) dùng để hoạt động trên một cảnh giới nào đó. Một số từ khác cũng thông dụng là “vehicle” thường được dịch là dẫn thể hay hiện thể, “sheath” là “lớp vỏ, lớp áo” mà Chân ngã khoác vào khi đầu thai vào cõi trần. Một từ khác là “garment”, “lớp áo.”
Mỗi thể là một phương tiện để Chân ngã hay con người nội tại hoạt động trên một cảnh giới, để thể hiện một phương diện hay đặc tính nào đó của thiêng liêng. Trong ba hạ thể của phàm ngã thì thể hồng trần thể hiện phương diện thứ nhất—Quyền lực, Ý Chí—, thể cảm dục thể hiện phương diện thứ hai, Bác Ái – Minh Triết, thể hạ trí thể hiện phương diện thứ ba là Thông Tuệ Linh Hoạt.
Ở đây, các bạn cũng phải phân biệt giữa “thể” (body hay vehicle) và “nguyên lý” (principle – còn được dịch là nguyên khí). Sách vở Thông Thiên Học không giải thích rõ sự khác biệt giữa thể và nguyên lý, và đôi khi người học đạo lẫn lộn giữa hai từ này. Thí dụ hai quyển sách của bà Annie Besant viết về cấu tạo con người là quyển Man and His bodies (Con người và các thể) và Seven Principles of Man (Bảy Nguyên Lý của Con người), và người đọc có thể lầm lẫn giữa thể và nguyên lý. Thể là một hình thể, một tập hợp vật chất ở một mức độ rung động nào đó để Tinh thần Thiêng Liêng thể hiện một phẩm tính của nó. Cái phẩm tính mà Tinh thần thể hiện qua một thể là “nguyên lý”. Đây là giải thích của Chân sư DK về “thể” và “nguyên lý”:
Tất cả các hình hài sắc tướng đều hiện hữu để biểu lộ chân lý. Nhờ sự liên tục áp dụng Thiên ý trong Toàn thể mà chân lý được hiển lộ qua trung gian của vật chất. Khi có sự thấu hiểu chân lý hay nguyên lý căn bản, tinh thần sẽ tự hiển lộ. Người đệ tử cần nhận thức được cái nguyên lý mà mỗi hình tướng, mỗi lớp áo, hay mỗi thể khác nhau được dự định thể hiện, bấy giờ y sẽ biết cách vận dụng ý chí của mình một cách chính xác để mang lại những điều kiện như mong muốn. Các lớp áo và dẫn thể chỉ là các thể biểu hiện của y trên những cảnh giới khác nhau của thái dương hệ. Các thể ấy phải thể hiện cái nguyên lý vốn là đặc trưng hay phẩm tính ẩn trong mỗi cảnh giới. Ví dụ như, sau đây là bảy nguyên khí liên quan đến con người [Esoteric Healing trang 74]
All forms exist in order to express truth. By the steady application of God’s will in the Whole is truth revealed through the medium of matter. When the truth or basic principle is known spirit will then stand revealed. When the disciple realises [Page 74] what principle his various forms, sheaths, or bodies are intended to express, then he will know how to direct his will with exactitude so as to bring about the desired conditions. The sheaths and vehicles are simply his bodies of manifestation on the various planes of the system, and those sheaths must express the principle which is the characteristic or quality underlying each plane. For instance, the seven principles with which man is concerned are:
Sau đây là những điểm cần ghi nhớ khi học hỏi về các thể:
1. Con người có bảy thể để hoạt động trên các cõi giới khác nhau.
2. Các thể này chia làm hai: ba thể cao (gọi là Tam nguyên thượng hay Tam nguyên tinh thần) và bốn thể thấp (tứ nguyên hạ). Bốn thể thấp này được xem là ba (tam nguyên hạ) khi chúng ta xem thể hồng trần và thể dĩ thái cấu thành một thể là thể hồng trần.
3. Trong mỗi người, tùy theo trình độ tiến hóa khác nhau mà các thể có sự phát triển khác nhau. Không phải tất cả mọi người đều có thể cảm dục và thể trí đã phát triển hoàn chỉnh.
4. Mỗi thể thấp là một thực thể thuộc dòng tiến hóa thiên thần, bản thân nó cũng được cấu tạo từ vô số các sinh linh nhỏ bé khác. Mỗi thể có đời sống riêng và sự tiến hóa riêng của nó. Chúng được liên kết với con người qua các kiếp sống bởi sợi dây nghiệp quả. Khi con người tiến hóa thì các tinh linh xác thân, tinh linh cảm dục, và tinh linh trí tuệ cũng tiến hóa theo, và bổn phận của con người là giúp các sinh vật cùng trú ngụ trong “tiểu thiên địa” của mình đạt được mục tiêu tiến hóa của chúng. Chúng tôi xin trích ở đây hai qui luật điểm đạo (thứ tư và thứ năm) nói về bổn phận của người ứng viên điểm đạo phải giúp các sinh vật trong tiểu thiên đại của y cùng đạt đến mục tiêu tiến hóa cũa chúng:
Qui luật 4 – Rule 4
Người đệ tử hãy trông nom sự tiến hóa của ngọn lửa; hãy nuôi dưỡng các sinh linh hạ đẳng, và như thế giữ cho bánh xe quay mãi.
Let the disciple tend the evolution of the fire; nourish the lesser lives, and thus keep the wheel revolving.
Đây là huấn thị khiến người đệ tử nhớ trách nhiệm của mình đối với nhiều sinh linh hạ đẳng, tất cả hợp thành thể biểu hiện tam phân của y. Nhờ thế cuộc tiến hóa có thể thực hiện, và nhờ thế mà mỗi sinh linh trong các giới khác nhau của thiên nhiên, dù hữu thức hay không, đều hoàn thành chức năng của nó là làm sinh động đúng cách những gì mà đối với nó như hành tinh đối với mặt trời. Nhờ đó mà Thiên Cơ được triển khai một cách chính xác hơn. Cõi giới của Thượng đế vốn ở nội tâm, và bổn phận của Chủ thể ẩn tàng nội tại gồm hai phần, một là đối với các sinh linh tạo thành thể hồng trần, thể cảm dục và thể trí của y, và kế đó là đối với đại vũ trụ, thế giới mà trong đó tiểu vũ trụ chỉ là một phần vô cùng nhỏ.
Here comes an injunction to the disciple to remember his responsibility to those many lesser lives which, in their sum total, compose his triple body of manifestation. Thus is evolution possible, and thus each life, in the different kingdoms of nature, consciously or unconsciously, fulfils its function of rightly energizing that which is to it as is the planet to the sun. Thus will the unfolding of the plan logoic proceed with greater accuracy. The kingdom of God is within, and the duty of that inner hidden Ruler is twofold, first, to the lives which form the bodies, physical, astral, and mental, and then to the macrocosm, the world of which the microcosm is but an infinitesimal part.
Qui luật 5 – Rule 5.
Ứng viên hãy để cho Thái dương Thiên Thần làm lu mờ ánh sáng của nguyệt tinh quân, chỉ còn lại nguồn sáng duy nhất trên bầu trời tiểu vũ trụ.
Let the applicant see to it that the solar angel dims the light of the lunar angels, remaining the sole luminary in the microcosmic sky.
Muốn hoàn thành huấn thị này, tất cả các ứng viên cần thực hiện hai điều, thứ nhất, nghiên cứu nguồn gốc của mình, nhận biết được tâm thái thật sự của chính mình hiểu theo huyền bí, và ý thức được một cách khoa học về thực tính của Chân nhân, hay Chân ngã, đang hoạt động trong thể nguyên nhân. Bấy giờ họ phải khẳng định thiên tính bẩm sinh của họ, ở cõi trần, qua trung gian của ba hạ thể, và ngày càng bày tỏ giá trị căn bản của mình. [196] Thứ hai, nghiên cứu sự cấu tạo của con người, thấu hiểu cách hoạt động trong phàm tính, nhận thức được mối tương quan và tùy thuộc lẫn nhau của mọi sinh vật, và do đó chế ngự được các sinh linh hạ đẳng hợp thành ba thể biểu lộ. Do đó, Thái dương Thiên Thần, Thực tại nội tâm, Con của Đấng Cha Lành, và là Chủ thể Tư tưởng trên cảnh giới của mình trở thành trung gian giữa những gì thuộc về trần thế và những gì có nguồn gốc bên trong mặt trời. Có hai câu trong Kinh Thánh hàm chứa phần nào ý tưởng này, và rất hữu ích nếu được các môn sinh Tây phương dùng để tham thiền:- “Các nước trên thế gian này trở thành nước của Chúa Trời và của Đức Christ Con Ngài.” “Lạy Chúa, Đấng Thượng Đế chúng con, các thần khác Ngài đã thống trị chúng con, nhưng chỉ bởi Ngài mà chúng con kêu cầu đến Thánh danh Ngài.” Câu sau đặc biệt thú vị, vì nó biểu thị sự chế ngự của cái có nguồn gốc cao siêu trên âm thanh và lực sáng tạo cấp thấp.
To fulfil this injunction all applicants need to do two things, first, to study their origin, to realize their own true psychology occultly understood, and to become, scientifically aware of the real nature of the Ego, or the Higher Self, functioning in the causal body. Then they have to assert upon the physical plane, through the medium of the three lower bodies, their innate divinity, and to demonstrate in ever increasing degree their essential value. Secondly, to study the constitution of man, to understand the method [196] of functioning in the lower nature, to realize the interdependence and interrelation of all living things, and thus bring the lesser lives, which compose those three bodies of manifestation, under control. Thus the solar Lord, the inner Reality, the Son of the Father, and the Thinker on his own plane becomes the intermediary between that which is of the earth, earthy, and that which finds its home within the sun. Two verses in the Christian Bible hide something of this idea within themselves, and students in the occident may find it helpful to meditate upon them: — “The kingdoms of this world are become the kingdom of our Lord and of his Christ.” — “O Lord, our God, other lords beside thee have had dominion over us, but by thee only will we make mention of thy name.” The last verse is particularly interesting, as it demonstrates the suppression of the lower sound and creative force by that which is of higher origin.
5. Trong giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa, con người đồng hóa với các thể mà con người thể hiện. Trên con đường “trở về”, con người hiểu được bản chất của mình, và thôi đồng hóa với chúng (dis-identification). Chúng ta nhận thức được rằng chúng ta không phải là thể hồng trần, thể cảm dục hay thể trí. Chúng ta là người chủ của các tinh linh chứ không phải nô lệ cho chúng. Quá trình thôi đồng hóa (disidentification) với các thể thấp là quá trình lâu dài và đòi hỏi nhiều nỗ lực trên con đường “phản bổn hoàn nguyên”, tìm về nguồn cội tinh thần của chúng ta.
6. Thể hồng trần bao gồm hai thể: thể hồng trần và thể dĩ thái, và thể hồng trần đã được khoa học nghiên cứu thật tường tận. Chân sư DK nói rằng Y khoa (và cũng có lẽ khoa học nói chung) là món quà mà Thượng đế dành cho nhân loại. Những đóng góp của Khoa học, Sinh vật học … vào sự hiểu biết của con người thật to lớn biết bao. Sinh vật học ngày nay đã bước vào thế giới sinh học phân tử, tìm hiểu cặn kẽ nguyên tắc di truyền. Còn Vật lý học với các khám phá về quark đã bước vào cõi phụ dĩ thái (etheric) của cõi trần. Trong tương lai, nếu khoa học có thể khám phá ra cách làm việc cới các cõi phụ dĩ thái theo cách như hiện nay đang làm việc với thế giới vật lý (ba cõi phụ 5,6,7) thì có lẽ đó là một trong những tiến bộ vĩ đại nhất.
Sau đây là phần trích từ quyển Con Người và Các Thể của bà Annie Besant phần nói về thể hồng trần và thể dĩ thái. Trọng tâm nghiên cứu của chúng ta là thể dĩ thái, do đó chúng tôi chỉ trích tóm tắt những điểm chính nói về thể hồng trần. Phần trích của bà Annie Besant sẽ có màu xanh, và xen lẫn với trích dẫn từ sách của bà Annie Besant là giải thích của chúng tôi có màu đen.
***
Từ ngữ thể hồng trần hay thể vật lý bao gồm hai nguyên lý thấp của con người [1], hai nguyên lý này cùng hoạt động ở cõi trần, cùng được tạo nên bởi chất liệu vật chất, cùng sinh hoạt trong thời gian cuộc sống của con người ở cõi trần, và bị vứt bỏ lúc con người ‘‘chết’’, khi con người bước qua cõi trung giới chúng sẽ tan rã dần ở cõi trần.
Under the term physical body must be included the two lower principles of man—called in our old terminology the Sthūla Sharīra and Linga Sharīra—since they both function on the physical plane, are composed of physical matter, are formed for the period of one physical life, are cast off by the man at death, and disintegrate together in the physical world when he passes on into the astral.
Sửa đổi thể hồng trần không thể làm con người trở thành vị thánh… Chỉ với xác thân ta không thể đạt được ước vọng cao cả, nhưng nếu quên lãng nó, ta cũng không thể tiến bước lên cao được.
[1] Đây là câu nói mà Chân sư DK chỉnh lại trong các sách của Ngài :”thể xác không phải là một nguyên lý”, và bà Blavatsky cũng dạy thế.
Do đặc tính chất liệu tạo ra, ta có thể phân biệt chúng thành thể hồng trần thô kệch và thể ‘‘dĩ thái kép’’ (etheric double). Thể dĩ thái kép là bản sao chính xác từng phần của thể hồng trần hữu hình; qua trung gian nó, mọi dòng điện và sinh lực được cung cấp cho những hoạt động của thể hồng trần. Từ trước đến giờ thể dĩ thái được gọi là Linga sarira, tuy nhiên do vài lý do khác nhau, chúng ta không nên dùng từ ngữ này nữa… Hơn nữa, danh từ ‘‘dĩ thái kép’’ diễn đạt rất đúng bản chất và sự cấu tạo phần thanh nhẹ của thể hồng trần, nó cũng dễ nhớ, ‘dĩ thái’ (etheric) vì được cấu tạo từ chất dĩ thái (ether), ‘kép’ (double) vì là bản sao (duplicate) của thể hồng trần thô kệch, hay cái bóng của nó.
They are distinguishable by the materials of which they are composed into the gross body and the etheric [5] double, the latter being the exact duplicate of the visible body, particle for particle, and the medium through which play all the electrical and vital currents on which the activity of the body depends. This etheric double has hitherto been called the Linga Sharīra, but it seems advisable, for several reasons, to put an end to the use of the name in this relation. “Linga Sharīra” has from time immemorial been used in Hindu books in another sense, and much confusion arises among students of Eastern literature, whether Easterns or Westerns, in consequence of its arbitrary wresting from its recognized meaning; for this reason, if for no other, it would be well to surrender its improper use. Further, it is better to have English names for the subdivisions of the human constitution, and thus remove from our elementary literature the stumbling block to beginners of a Sanskrit terminology. Also, the name etheric double exactly expresses the nature and constitution of the subtler portion of the physical body, and is thus significant and therefore easy to remember, as every name should be; it is “etheric” because made of ether, “double” because an exact duplicate of the gross body—its shadow, as it were.
Sửa đổi thể hồng trần không thể làm con người trở thành vị thánh, nhưng vì thể hồng trần là dụng cụ cần thiết để ta sử dụng, nên ta cần điều chỉnh nó để bước chân trên đường đạo được dễ dàng. Chỉ với xác thân ta không thể đạt được ước vọng cao cả, nhưng nếu quên lãng nó, ta cũng không thể tiến bước lên cao được. Điều đầu tiên nên nhớ là thể hồng trần hiện tồn để ta sử dụng, không phải nó sử dụng ta; ta không làm tôi tớ nó, không bị nó dùng. Ta cần thanh lọc, cải thiện, uốn nắn cơ thể để nó trở thành một dụng cụ thích hợp nhất cho mục tiêu cao cả của ta ở cõi trần.
Nothing that a man can do to the physical body alone will turn him into a seer or a saint; but it is also true that inasmuch as the body is an instrument that we have to use, certain treatment of the body is necessary in order that we may turn our footsteps in the direction of the Path; while dealing with the body only will never take us to the heights to which we aspire, still to let the body alone will make it impossible for us to scale those heights at all. The bodies in which he has to live and work are the instruments of the man, and the very first thing we have to realize is this: that the body exists for us, not we for the body; the body is ours to use—we do not belong to it to be used by it. The body is an instrument which is to be refined, to be improved, to be trained, to be moulded into such a form and made of such constituents as may best fit it to be the instrument on the physical plane for the highest purposes of the man.
Mọi việc có khuynh hướng đưa ta đến mục đích cao cả, cần được khuyến khích và vun trồng, mọi việc đưa ta đi ngược lại mục đích ấy cần phải tránh. Bất cứ điều gì thể hồng trần muốn, bất cứ thói quen nào nó phạm phải trong quá khứ, nếu không hợp với đường hướng thượng cần phải dẹp bỏ. Thể hồng trần là sở hữu của chúng ta, nó phải được dùng theo ý chúng ta muốn. Lúc nào thể hồng trần làm chủ con người, đòi quyền dẫn dắt con người thay vì được con người dẫn dắt, lúc ấy trọn mục đích của cuộc đời bị hủy diệt, và con người không thể tiến bộ được. Người nhiệt tâm cầu tiến phải bắt đầu kiểm soát thể hồng trần.
Everything which tends in that direction is to be encouraged and cultivated; everything which goes contrary to it is to be avoided. It does not matter what wishes the body may have, what habits it may have contracted in the past, the body is ours, our servant, to be employed as we desire, and the moment it takes the reins into its own hands and claims to guide the man instead of being [8] guided by the man, at that moment the whole purpose of life is subverted, and any kind of progress is rendered utterly impossible. Here is the point from which any person who is in earnest must start.
Do bản chất, thể hồng trần có thể dễ dàng được con người uốn nắn thành một dụng cụ, một tôi tớ tốt. Nó có vài tính chất đặc biệt giúp chúng ta dễ dàng huấn luyện, hướng dẫn và uốn nắn nó. Một trong những đặc tính đó là: khi nó đã quen làm việc theo một đường lối đặc biệt nào, nó sẽ sẵn sàng tiếp tục tự động và hoàn toàn vui thích làm việc theo đường lối đó, như trước kia nó đã thích làm theo những đường lối khác. Khi đã vướng vào một thói quen xấu, thể hồng trần sẽ mạnh mẽ chống lại mọi sự thay đổi thói quen đó. Nhưng nếu nó bị bắt buộc phải thay đổi, nếu ta thắng được sự chống đối của nó, và nó bị ép buộc phải hành động theo ý muốn chúng ta, một thời gian ngắn sau, nó sẽ có thói quen mới do chúng ta áp đặt, và vui lòng tuân theo đường lối mới, cũng như trước kia nó đã vui lòng theo đường lối cũ.
The very nature of the physical body makes it a thing which can be turned fairly easily into a servant or an instrument. It has certain peculiarities which help us in training it and make it comparatively easy to guide and mould, and one of these peculiarities is that when once it has been accustomed to work along particular lines it will very readily continue to follow those lines of its own accord, and will be quite as happy in doing so as it was previously in going along others. If a bad habit has been acquired, the body will make considerable resistance to any change in that habit; but if it be compelled to alter, if the obstacle it places in the way be overcome, and if it be forced to act as the man desires, then after a short time the body will of its own accord repeat the new habit that the man has imposed on it, and will as contentedly pursue the new method as it pursued the old one to which the man found reason to object.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét thể đậm đặc, có thể gọi là phần hữu hình của thể hồng trần, dù những chất hơi cũng là thành phần của thể đậm đặc cũng không thấy được bằng mắt thường. Thể hồng trần đậm đặc là ‘‘lớp áo’’ ngoài cùng và là biểu lộ thấp nhất của con người; với nó con người bị giới hạn nhiều nhất, và qua nó con người diễn đạt bất toàn nhất.
Let us now turn to the consideration of the dense body that we may roughly call the visible part of the physical body, though the gaseous constituents are not visible to the untrained physical eye. This is the most outward garment of the man, his lowest [9] manifestation, his most limited and imperfect expression of himself.
Thể hồng trần đậm đặc, thể xác
… Trong quá khứ xa xưa của sự tiến hóa vật chất, khi thể hồng trần được tạo ra, và hệ thần kinh giao cảm được đặt dưới sự kiểm soát của ‘‘con vật’’ sở hữu nó, dần dần về sau, sự hoạt động của nó trở nên tự động. Nó vượt qua khỏi sự kiểm soát của ý muốn, hoạt động gần như độc lập và giúp cho những sinh hoạt trọng yếu hàng ngày của cơ thể.
At one time during the long past of physical evolution during which our bodies were built, this system was under the control of the animal possessing it, but gradually it began to work automatically—it passed away from the control of the will, took on its own quasi-independence and carried on all the normal vital activities of the body.
Lúc khỏe mạnh, con người không để ý đến những hoạt động này. Con người chỉ biết mình đang thở khi có gì làm ngăn chận sự thở, chỉ biết trái tim đang đập khi nó đập dồn dập, hay không đều, nhưng khi chúng hoạt động điều hòa, con người không nhận ra sự hiện diện của chúng. Tuy nhiên với sự thực tập khó khăn, lâu dài, con người có thể kiểm soát những hoạt động của hệ thần kinh giao cảm. Những tu sĩ Hatha Yoga phát triển rất cao năng lực kiểm soát hệ thần kinh giao cảm, với mục đích kích thích những quyền năng tâm linh bậc thấp. Người ta có thể làm phát triển những năng lực này (không để ý đến sự tăng trưởng tinh thần, đạo đức hay trí tuệ) bằng cách tác động trực tiếp lên thể hồng trần. Tu sĩ Hatha Yoga học cách kiểm soát hơi thở, có thể đến giai đoạn ngưng thở trong một thời gian khá lâu, kiểm soát nhịp đập quả tim, làm sự tuần hoàn nhanh hay chậm tùy theo ý muốn. Do những cách thức này, họ đưa thể hồng trần vào trạng thái xuất thần, để cho thể cảm xúc tự do thoát ra khỏi thể hồng trần.
While a person is in health, he does not notice these activities; he knows that he breathes when the breathing is oppressed or checked, he knows that his heart beats when the beating is violent or irregular, but when all is in order these processes go on unnoticed. It is, however, possible to bring the [10] sympathetic nervous system under the control of the will by long and painful practice, and a class of Yogi in India—Hatha Yogis they are called—develop this power to an extraordinary degree, with the object of stimulating the lower psychic faculties. It is possible to evolve these (without any regard to spiritual, moral or intellectual growth) by direct action on the physical body. The Hatha Yogi learns to control his breathing even to the point of suspension for a considerable period to control the beating of his heart, quickening or retarding the circulation at will, and by these means to throw the physical body into a trance and set free the astral body.
Đây không phải là phương pháp thực hành được khuyến khích, [2] nhưng nó cho những người ở tây phương (những người ở các nước này coi thể hồng trần như là bản chất chủ yếu của con người) biết được con người có thể kiểm soát những sinh hoạt tự động của cơ thể. Họ thấy khi con người tự rèn luyện khắc khổ, lâu dài có thể được tự do thoát khỏi ngục tù xác thân, và vẫn tiếp tục sống khi sự sống của cơ thể bị đình chỉ. Ít nhất họ biết được con người không phải chỉ là nô lệ của những giác quan.
[2] Chân sư DK cũng nói thế: đó là con đường đi ngược lại sự tiến hóa. Trọng tâm của con người hiện nay là phát triển trí tuệ và trực giác, làm chủ cảm xúc và dục vọng, chứ không quay trở lại kiểm soát những hoạt động tự động của thể xác, cái đã chìm dưới tâm thức.
The method is not one to be emulated; but still it is instructive for Western nations (who are apt to regard the body as of such imperative nature) to know how thoroughly a man can bring under his control these normally automatic physical processes, and to realize that thousands of men impose on themselves a long and exquisitely painful discipline in order to see themselves free from the prison-house of the physical body, and to know that they live when the animation of the body is suspended. They are at least in earnest, and are no longer the mere slaves of the senses.
…
Mỗi nguyên tử hóa học là một vật sống, nó có thể sống một đời sống độc lập. Nhiều nguyên tử hóa học kết hợp lại thành một thực thể phức tạp hơn, cũng là một vật sống.
Hệ thống thần kinh, giống như những thành phần khác của cơ thể, được tạo nên bởi nhiều tế bào. Tế bào là một thể nhỏ xác định, có màng bao bọc và những thành phần bên trong, nó thay đổi tùy theo nhiệm vụ trong những cơ quan khác nhau của cơ thể. Tế bào được tạo thành bởi nhiều phân tử nhỏ, và đến lượt những phân tử nhỏ này cũng do những nguyên tử hợp lại, mỗi nguyên tử là thành phần của một nguyên tố hóa học. Những nguyên tử hóa học này kết hợp theo vô số cách thức khác nhau để tạo nên chất khí, chất lỏng, và chất đặc của cơ thể đậm đặc.
These nervous systems, like every part of the body, are built up of cell, small definite bodies, with enclosing wall and contents, visible under the microscope, and modified according to their various functions; these cells in their turn are made up of small molecules, and these again of atoms—the atoms of the chemist, each atom being his ultimate indivisible particle of a chemical element. These chemical atoms combine together in innumerable ways to form the gases, the liquids, and the solids of the dense body.
Theo giáo lý Minh Triết Thiêng Liêng, mỗi nguyên tử hóa học là một vật sống, nó có thể sống một đời sống độc lập. Nhiều nguyên tử hóa học kết hợp lại thành một thực thể phức tạp hơn, cũng là một vật sống. Mỗi tế bào có đời sống riêng của nó, và tất cả những nguyên tử hóa học, phân tử và tế bào được kết hợp chung trong một cơ quan, một cơ thể, cung ứng như dẫn thể của một hình thức tâm thức cao cả hơn. [3]
[3] Đây là phát biểu căn bản của huyền linh học: trong thiên nhiên không có vật chất chết, tất cả đều có sự sống từ hat nguyên tử đến các vì sao, thiên hà …
… Dựa vào những sự kiện này, ta thấy con người có thể thanh lọc hóa thể đậm đặc (thể hồng trần), để nó trở thành dụng cụ thích hợp. Người thường cứ để cho cơ thể tự bù đắp bằng những chất liệu từ bên ngoài, mà không để ý đến bản chất của chúng. Họ chỉ chú trọng đến sự ngon miệng và những ham muốn, mà không để ý đến chúng có thích hợp hay không trong việc tạo nên nơi trú ngụ trong sạch, cao quí cho Chân Ngã, tức con người thật sự ngự bên trong.
Now, the vast majority of mankind know little and care less for these facts, and yet on them hinges the possibility of the purification of the dense body, thus rendering it a fitter vehicle for the indwelling man The ordinary person lets his body build itself up anyhow out of the materials supplied to it, without regard to their nature, caring only that they shall be palatable and agreeable to his desires, and not whether they be suitable or unsuitable to the making of a pure and noble dwelling for the Self, the true man that liveth for ever more.
Những người bất cẩn, không chú ý đến những phần tử đến và đi, không chọn lựa, không từ chối, họ để cho mọi thứ tự tích tụ, như người thợ nề cẩu thả không loại bỏ rác rưởi, đất bùn, những mảnh vụn v.v… khỏi những vật liệu xây dựng ngôi nhà.
Như thế, sự thanh lọc hóa thể hồng trần đậm đặc bao gồm sự cố ý chọn lựa những phần tử cấu tạo nên nó. Con người cần ăn những thực phẩm trong sạch, tinh khiết, từ chối những thức ăn thô kệch, không trong sạch. Theo thiên nhiên, những phần tử thô kệch cấu tạo nên thể hồng trần do không kiểm soát lối sống trước kia, sẽ dần dần bị loại đi để thay thế bằng những phần tử trong sạch, sự thay đổi hoàn toàn mất chừng 7 năm, và ta có thể thúc đẩy tiến trình này nhanh hơn. Khi làm tăng những thành phần tinh khiết, con người tạo ra một ‘‘đạo quân’’ tự vệ trong cơ thể, chúng sẽ tiêu diệt bất cứ phân tử dơ bẩn nào từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể mà không có sự đồng ý của chủ nhân. Thêm vào đó, ta cần chủ động dùng ý chí để bảo vệ cơ thể luôn luôn trong sạch, ý chí này tác động như một từ trường, liên tục xua đuổi những sinh vật không trong sạch muốn xâm nhập cơ thể. Như thế, ta che chở cơ thể tránh khỏi sự tấn công từ môi trường bên ngoài đầy dẫy mọi loại độc hại.
He exercises no supervision over these particle as they come and go, selecting none, rejecting none, but letting everything build itself in as it lists, like a careless mason who should catch up any rubbish as materials for his house, floating wool and hairs, mud, chips, sand, nails, offal, filth of any kind—the veriest jerry-builde [15] is the ordinary man with his body. The purifying of the dense body will then consist in a process of deliberate selection of the particles permitted to compose it; the man will take into it in the way of food the purest constituents he can obtain, rejecting the impure and the gross; he knows that by natural change the particles built into it in the days of his careless living will gradually pass away, at least within seven years—though the process may be considerably hastened—and he resolves to build in no more that are unclean; as he increases the pure constituents he makes in his body an army of defenders, that destroy any foul particles that may fall upon it from without or enter it without his consent; and he guards it further by an active will that it shall be pure, which, acting magnetically, continually drives away from his vicinity all unclean creatures that would fain enter his body, and thus shields it from the inroads to which it is liable, while living in an atmosphere impregnated with uncleannesses of every kind.
…
Thí dụ một người chân thành quyết định làm trong sạch hóa thể xác, người ấy có thể lợi dụng sự kiện thể xác sẽ thay đổi hoàn toàn trong 7 năm, hoặc họ có thể chọn con đường ngắn, nhanh nhưng khó khăn hơn để làm thay đổi nó. Trong cả hai trường hợp họ phải bắt đầu ngay việc chọn lựa những chất liệu cấu tạo nên thể xác ‘‘mới’’, và vấn đề thực phẩm được đặt ra.
Let us suppose that a man deliberately chooses that he will have a pure body, and that he either takes advantage of the fact that his body completely changes in seven years, or prefers the shorter and more difficult path of changing it more rapidly—in either case he will begin at once to select the materials from which the new clean body is to be built, and the question of diet will present itself.
Người muốn thanh lọc thể hồng trần phải tức khắc bắt đầu loại bỏ các thực phẩm không trong sạch, độc hại cho sự cấu tạo những phần tử trong cơ thể. Họ phải kiêng cữ rượu và những thực phẩm có chứa rượu, vì chúng đem vào cơ thể những phân tử rất ô uế. Rượu là thực phẩm do sự thối rữa tạo ra, tự nó không những đáng ghê tởm, mà còn thu hút con người. Sự thu hút này lan truyền đến những người khác cùng sự ham muốn, trong đó có những cư dân vô hình đáng thương hại vất vưởng ở cõi trung giới.
He will immediately begin to exclude from his food all kinds which will build into his body particles which are impure and polluting. He will strike off all alcohol, and every liquor which contains it, because that brings into his physical body microbes of the most impure kinds, products of decomposition; these are not only offensive in themselves, but they attract towards themselves—and therefore towards any body of which they form [17] part—some of the most objectionable of the physically invisible inhabitants of the next plane.
Những người nghiện ngập lang thang ở cõi trung giới, vì đã mất thể hồng trần cho nên không thể thỏa mãn sự thèm khát say sưa. Họ tụ tập chung quanh những nơi ăn nhậu, cố gắng xâm nhập vào thể hồng trần những người đang uống rượu để hưởng nhờ cảm giác thích thú thấp thỏi mà tự họ không thể thỏa mãn. Người tao nhã sẽ không còn muốn uống rượu nữa, nếu họ có thể nhìn thấy những ‘‘sinh vật’’ đang tìm cách dự phần vào sự vui thích của thể hồng trần họ, và nếu họ biết được rằng uống rượu là thiết lập liên hệ với những thực thể đáng ghê tởm ấy. Những phần tử xấu trong loài tinh hoa chất tụ tập chung quanh tư tưởng người nghiện rượu, trong khi cơ thể họ thu hút những phân tử thô kệch được thải ra từ cơ thể những người nghiện ngập, phóng đãng ở môi trường chung quanh, làm cho cơ thể họ càng thô kệch, suy đồi hơn. Quan sát những người làm nghề chế tạo hoặc buôn bán rượu và những loại thực phẩm chứa rượu, ta thấy thể hồng trần họ càng ngày càng trở nên nặng nề, thô kệch. Như thế, chẳng những đối với những người thích ăn nhậu say sưa, người làm nghề ủ rượu và người chủ quán rượu cũng cho thấy thể hồng trần họ chứa đựng những thành phần thô kệch.
Drunkards who have lost their physical bodies, and can therefore no longer satisfy their longing for intoxicants, hang round places where drink is taken, and round those who take it, endeavouring to push themselves into the bodies of people who are drinking, and thus to share the low pleasure to which they surrender themselves. Women of refinement would shrink from their wines if they could see the loathly creatures who seek to partake in their enjoyment, and the close connection which they thus set up with beings of the most repellent type. Evil elementals also cluster round the thoughts of drunkards clad in elemental essence, while the physical body attracts to itself from the surrounding atmosphere other gross particles given off from drunken and profligate bodies, and these also are built into it, coarsening and degrading it. If we look at people who are constantly engaged with alcohol, in manufacturing or distributing spirits, wines, beers, and other kinds of unclean liquors, we can see physically how their bodies have become gross and coarse. A brewer’s man, a publican—to say nothing of persons in all ranks of society who drink to excess—these show fully what everyone who builds into his body any of these particles is doing in part and slowly; the more of these he builds in, the coarser will his body become.
Cũng thế, những thể xác được nuôi sống bằng thịt các loài thú vật, loài bò sát, chim, cá v.v… không thể nào nhạy cảm, thanh nhẹ, quân bình, khỏe mạnh và bền chắc như thép đã được tôi luyện, cần thiết cho mọi công việc cao cả. Hãy nhận xét người làm nghề sát sinh và người đồ tể, xem thể xác họ có giống như những dụng cụ thích hợp để sử dụng cho tư tưởng cao thượng và những vấn đề tinh thần cao cả chăng? Thể xác không thanh sạch làm cản trở con người muốn sống một đời tinh thần. Ta không nên để sự biểu lộ của năng lực, dù lớn hay nhỏ, bị giới hạn bởi dụng cụ không hoàn hảo.
And so with other articles of diet, [18] flesh of mammals, birds, reptiles and fish, with that of crustaceous creatures and mollusks which feed on carrion—how should bodies made of such materials be refined, sensitive, delicately balanced and yet perfectly healthy, with the strength and fineness of tempered steel, such as the man needs for all the higher kinds of work? Is it necessary again to add the practical lesson that may be learned by looking at the bodies of those living in such surroundings? See the slaughterman and the butcher, and judge if their bodies look like the fittest instruments for employment on high thoughts and lofty spiritual themes. Yet they are only the highly finished products of the forces that work proportionately in all bodies that feed on the impure viands they supply. True, no amount of attention paid to the physical body by the man will of itself give him spiritual life, but why should he hamper himself with an impure body? Why should he allow his powers, whether great or small, to be limited, thwarted, dwarfed in their attempts to manifest by this needlessly imperfect instrument?.
Tuy nhiên, có những khó khăn trên đường thanh lọc xác thân mà ta cần lưu ý. Ta có thể cố gắng khổ nhọc, cương quyết loại bỏ những thực phẩm không trong sạch để thanh lọc hóa cơ thể, nhưng ta đang sống giữa những người cẩu thả, những người mà phần đông không hiểu biết gì về những sự kiện thiên nhiên này. Thể hồng trần càng được thanh lọc, những giác quan chúng ta càng bén nhạy, chúng ta càng phải chịu đựng sự khó chịu khi phải tiếp xúc với những người thô kệch, mang nhiều thú tính, trên đường phố của nền văn minh vật chất hiện nay. Những phân tử không thanh khiết từ những quán rượu, những nơi ăn nhậu, những hàng bán thịt, xâm nhập lên cơ thể người đi đường, cũng như trộn lẫn vào bầu không khí mà họ hít vào. Nhưng một cơ thể khỏe mạnh không có chỗ để cho những loại vi trùng mang mầm bệnh nẩy nở; cũng giống thế, một thể hồng trần thanh sạch không để cho những phân tử dơ bẩn phát triển. Như ta đã biết, có một ‘‘đạo binh’’ những sinh vật sống luôn luôn làm việc để giữ cho máu chúng ta được trong sạch, những đoàn quân bảo vệ này sẽ tiêu diệt bất cứ phần tử độc hại nào xâm nhập vào ‘‘thành phố’’ của cơ thể thanh sạch. Tùy ý, ta có thể tạo ra trong dòng máu những vệ sĩ bảo vệ sự sống, hay đưa vào những tên cướp giết hại những thành phần tốt trong cơ thể ta. Càng quyết tâm từ chối đem vào cơ thể những chất ô trược, ta càng có nhiều sức mạnh chống lại những sự tấn công độc hại từ bên ngoài.
There is, however, one difficulty in our way that we cannot overlook; we may take a good deal of pains with the body and may resolutely refuse to befoul it, but we are living among people who are careless and who for the most part know nothing of these facts in nature. In a town like London, or indeed in any Western town, [19] we cannot walk through streets without being offended at every turn, and the more we refine the body the more delicately acute do the physical senses become, and the more we must suffer in a civilization so coarse and animal as is the present. Walking through the poorer and the business streets, where there are beerhouses at every corner, we can scarcely ever escape the smell of drink, the effluvium from one drinking-place overlapping that from the next—even reputedly respectable streets being thus poisoned; so, too, we have to pass slaughter-houses and butchers’ shops. Of course one knows that when civilization is a little more advanced better arrangement will be made, and something will be gained when all these unclean things are gathered in special quarters where those can seek them who want them. But meanwhile particles from these places fall on our bodies, and we breathe them in with the air. But as the normally healthy body gives no soil in which disease-microbes can germinate, so the clean body offers no soil in which these impure particles can grow. Besides, as we have seen, there are armies of living creatures that are always at work keeping our blood pure, and these regiments of true lifeguards will charge down upon any poisonous particle that comes into the city of a pure body and will destroy it and cut it to pieces. For us it is to choose whether we will have in our blood these defenders of life, or whether we will [20] people it with the pirates that plunder and slay the good. The more resolutely we refuse to put into the body anything that is unclean, the more shall we be fortified against attacks from without.
Ta đã biết thể xác rất dễ sinh hoạt theo thói quen, và ta cần lợi dụng tính chất đặc biệt này. Nếu ta nói với một người muốn đạt được cảnh giới cao trong việc thực hành Yoga: ‘‘Bạn phải bắt đầu thanh lọc hóa thể xác trước khi thực hành bất cứ loại Yoga nào, xứng đáng với cái tên của nó. Vì Yoga đúng thực cũng nguy hiểm đối với một xác thân không trong sạch, không được rèn luyện, như một que diêm để gần thùng thuốc súng,’’ có lẽ ta sẽ nhận được câu trả lời của họ là nếu phải trải qua những cách tinh luyện cơ thể, sức khỏe của họ sẽ bị yếu kém đi.
Reference has already been made to the automatism of the body, to the fact that it is a creature of habit, and I said that use could be made of this peculiarity. If the Theosophist says to some aspirant who would fain practise Yoga and win entrance to higher planes being: “You must then begin at once to purify the body, and this must precede the attempt to practise a Yoga worthy of the name; for real Yoga is as dangerous to an impure and undisciplined body as a match to a cask of gunpowder”; if the Theosophist should thus speak, he would very probably be met with the answer that health would suffer if such a course were to be adopted.
Thể xác sẽ không bị ảnh hưởng gì nếu ta cung cấp đầy đủ thực phẩm cần thiết cho sự sinh hoạt của nó, trong một thời gian ngắn, thể xác sẽ tự thích ứng với các loại đồ ăn trong sạch, dinh duỡng mà chúng ta chọn lựa cho nó. Xác thân là một sinh vật có tính tự động, một thời gian ngắn nó sẽ ngưng đòi hỏi những thứ mà chúng ta không cho nó. Nếu bạn không quan tâm đến sự đòi hỏi những loại thức ăn có mùi vị mà trước kia nó thích, nó sẽ sớm có thói quen không còn thích những món đó nữa. Như khẩu vị tự nhiên của một người bình thường là ghê tởm những loại thịt thú rừng thối rữa, vị giác của người thanh sạch sẽ từ chối những thực phẩm thô kệch.
As a dry matter of fact the body does very much care in the long run what you give it, provided that you give it something that will keep it in health; and it will accommodate itself in a short time to a form of pure and nutritious food that you choose to adopt. Just because it is an automatic creature, it will soon stop asking for things that are steadily withheld from it, and if you disregard its demands for the coarse and ranker kinds of food it will soon get into the habit of disliking them. Just as even a moderately natural palate will shrink with a sickening feeling of disgust from [21] the decaying game and venison if yclept* [* Archaic English, meaning ‘called’ or ‘named’.] “high”, so a pure taste will revolt against all coarse foods.
Những người từ lâu đã dùng nhiều loại thức ăn không trong sạch, cơ thể họ sẽ đòi hỏi mạnh mẽ những thức ăn đó, nếu họ có khuynh hướng chiều theo ý muốn của cơ thể, sự kiện cứ tiếp diễn mãi. Nhưng khi họ không chú ý đến sự đòi hỏi, họ sẽ ngạc nhiên thấy rằng cơ thể sẽ sớm nhận ra ý muốn của chủ nó và tự thích ứng với thói quen mới. Kế đó nó sẽ bắt đầu thích những thực phẩm mới, và dần dần phát triển thói quen thích thực phẩm trong sạch, không thích thực phẩm thô trược. Thói quen của thể xác có thể được sử dụng trong việc trợ giúp hoặc ngăn cản, và cơ thể sẽ nhường bước khi nó hiểu bạn, ông chủ của nó. Cơ thể chỉ là dụng cụ để bạn sử dụng, và nó không thể ngăn cản được bạn, vì mục đích cuộc đời bạn là do ý muốn của chính bạn.
Suppose that a man has been feeding his body with various kinds of unclean things, his body will demand them imperiously, and he will be inclined to yield to it; but if he pays no attention to it, and goes his own way and not the way of the body, he will find, perhaps to his surprise, that his body will soon recognize its master and will accommodate itself to his orders; presently it will begin to prefer the things that he gives it, and will set up a liking for clean foods and a distaste for unclean. Habit can be used for help as well as for hindrance and the body yields when it understands that you are the master and that you do not intend the purpose of your life to be interfered with by the mere instrument that is yours for use.
Thật ra không phải chỉ một mình thể xác chịu hoàn toàn trách nhiệm lỗi lầm, mà còn có sự xen vào của bản chất dục vọng (kama). Thể xác của người trưởng thành đã có thói quen đòi hỏi những món đặc biệt nào đó, nhưng không phải tự nhiên cơ thể đứa trẻ đòi hỏi những thứ mà cơ thể người lớn thích thú, trừ khi cơ thể nó bị ảnh hưởng di truyền quá nặng. Nó không thích rượu, thịt, nhưng người lớn ép nó ăn thịt, người cha cho nó mếm một tí rượu vang trên bàn ăn, với khả năng bắt chước tự nhiên, đứa trẻ dễ tập theo đường lối xấu, và vị giác không trong sạch được hỗ trợ. Thêm vào đó có lẽ sự thèm khát do bản chất dục vọng cũ được đánh thức, đáng lẽ phải được chôn vùi, từ đó cơ thể dần dần tạo thành thói quen đòi hỏi những vật thực mà nó đã được nếm thử.
The truth is that it is not the body which is chiefly in fault, but Kama, the desire-nature. The adult body has got into the habit of demanding particular things, but if you notice a child, you will find that the child’s body does not spontaneously make demands for the things on which adult bodies feast with coarse pleasure; the child’s body, unless it has a very bad physical heredity, shrinks from meat and wine, but its elders force meat on it, and the father and mother give it sips of wine from their glasses at dessert, and bid it “be a little man,” till the child by its own imitative faculty and by the compulsion of others is turned into [22] evil ways. Then, of course, impure tastes are made, and perhaps old kamic cravings are awakened which might have been starved out, and the body will gradually form the habit of demanding the things upon which it has been fed.
Khi bạn đã làm thay đổi thói quen trong quá khứ bằng cách loại bỏ những phân tử không trong sạch ra khỏi thể xác, bạn sẽ tập đuợc thói quen mới, từ đó bạn cảm thấy khó chịu đối với cả mùi vị của những vật mà bạn đã từng thích trước kia. Điều khó khăn thật sự trong việc tái lập thói quen là do nhân quả, chớ không do cơ thể. Bạn không muốn thực hành, nếu thật sự muốn, bạn sẽ làm được. Có người tự nói: ‘‘Dù sao vấn đề cũng không quan trọng, tôi không tiến bộ đủ để có được khả năng tâm linh, do đó thanh lọc hóa thể xác cũng không thay đổi được gì.’’ Bạn không bao giờ tiến bộ nếu bạn không nỗ lực sống cuộc đời thanh cao, và để cho bản chất dục vọng ngăn cản bước tiến của bạn, đúng ra lối sống thanh cao nằm trong tầm với của bạn. Có người nói: ‘‘Tôi rất thích có được nhãn quan cõi trung giới, làm việc hữu thức trong thể vía khi cần,’’ nhưng khi đến bữa ăn, họ lại thích những thức ăn thô kệch, khoái khẩu. Khi con người được đề nghị một kho tàng vô giá của đời sống cao cả, họ dường như không thể vượt qua được những khó khăn tầm thường như kiêng cữ rượu thịt.
Despite all this in the past, make the change, and as you get rid of the particles that crave these impurities you will feel your body altering its habits and revolting against the very smell of the things that it used to enjoy. The real difficulty in the way of the reformation lies in Kāma, not in the body. You do not want to do it; if you did, you would do it. You say to yourself: “After all, perhaps it does not matter so much; I have no psychic faculties, I am not advanced enough for this to make any difference.” You will never become advanced if you do not endeavour to live up to the highest that is within your reach—if you allow the desire-nature to interfere with your progress. You say, “How much I should like to possess astral vision, to travel in the astral body!” but when it comes to the point you prefer a “good” dinner. If the prize for giving up unclean food were a million pounds at the end of a year, how rapidly would difficulties disappear and ways be found for keeping the body alive without meat and wine!
Nếu con người quyết tâm làm điều gì mà họ muốn làm, sẽ có nhiều thay đổi nhanh chóng ở thế gian hơn ta thấy hiện nay. Nhưng con người chỉ giả bộ, họ giả bộ một cách có hiệu quả đến độ đánh lừa cả chính họ, làm họ có ý nghĩ rằng họ rất chân thành. Như thế họ trở đi trở lại từ đời này sang đời khác, với cùng một lối sống trì trệ suốt nhiều ngàn năm. Đến một kiếp sống nào đó, họ tự hỏi tại sao họ không tiến bộ, tại sao một số người khác tiến triển rất nhanh trong một kiếp sống, mà họ không tiến tí nào?
Người có quyết tâm một cách bền bỉ, không phải tùy hứng, có thể tiến bộ theo ý họ muốn. Trong khi người giả bộ, chỉ chạy vòng quanh cối xay trong nhiều kiếp luân hồi.
But when only the priceless treasures of the higher life are offered, the difficulties are insuperable. If men really desired what they pretend to desire, we should have much more rapid changes around us [23] than we now see. But they make believe, and make believe so effectually that they deceive themselves into the idea that they are in earnest, and they come back life after life to live in the same unprogressive manner for thousands of years; and then in some particular life they wonder why they do not advance, and why somebody else has male such rapid progress in this one life while they make none. The man who is in earnest—not spasmodically but with steady persistence—can make what progress he chooses; while the man who is making believe will run round and round the mill-path for many a life to come.
Ở đây chỉ là sự thanh lọc hóa thể xác để chuẩn bị cho sự thực hành tất cả các loại yoga, không phải toàn thể sự chuẩn bị, mà chỉ là một phần cần thiết. Đến đây sự bàn luận về phần đậm đặc của thể hồng trần, tức dẫn thể thấp nhất của tâm thức, được coi như tạm đủ, chúng ta bước sang phần thanh nhẹ hơn của thể hồng trần, tức thể dĩ thái kép, thường được gọi là thể dĩ thái.
Here, at any rate, in this purification of the body lies the preparation for all Yoga practice—not the whole preparation most certainly, but an essential part of it. This much must suffice as to the dense body, the lowest vehicle of consciousness.
Cuối cùng, chúng tôi xin trích dẫn lời dạy của Chân sư DK từ quyển Thư về Tham thiền Huyền Môn, nói về cách tinh luyện thể xác, xem như bổ sung cho những gì mà bà Annie Besant giải thích khá dài ở trên:
Rèn luyện thể xác.
Việc này gồm một số điều kiện cần thiết: –
Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu. Thể xác được ảnh hưởng bằng nhiều lối khác nhau, tất cả đều hợp lý và thực dụng.
… các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch.
Thực phẩm tinh khiết. Đây có nghĩa là ăn chay, chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực. Tất cả những điều người đệ tử cần làm là xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ. Các bạn hỏi đó là những thức ăn nào? Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.
Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.
Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ mười giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.
Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.
Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử. . . . . . Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất. Cuối cùng còn có hai phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn: –
Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các [336] Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc. Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.
Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo. Ngày xưa, Điểm đạo Thần trượng thực sự có tác dụng như vật truyền dẫn mãnh lực này vào các luân xa của điểm đạo đồ. Vì thế Thần trượng phải được cấu tạo cách nào để đáp ứng được mục đích này. Hiện nay, nhân loại đang ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Thế nên, muốn phục vụ chính nhu cầu và mục đích đó thì cần phải đổi khác phương pháp áp dụng, vì sự phân cực của nhân loại đã thay đổi. Hiện nay sự phân cực không còn ở thể xác nữa mà ở thể tình cảm hay thể trí. Phương pháp áp dụng cho mỗi thể đều khác nhau, nên phải bảo toàn sự bí mật này và giữ kín điều bí nhiệm. [337]
Chia sẻ: