Chia sẻ:
Quyển Esoteric Healing của đức DK là một trong những quyển tương đối dễ đọc, và cung cấp cho chúng ta những kiến thức rất thực tiển như luân xa, sự chết, bệnh tật và cách chữa trị. Ngài nói rằng nguyên do chính của tất cả các bệnh tật là do năng lượng của linh hồn bị ngăn chặn, không thể lưu chuyển thông suốt trong cơ thể. Đi vào chi tiết, Ngài nói có ba nguyên do:
1. Nguyên do xuất phát từ nghiệp quả của chúng ta. Khi sinh ra, linh hồn chúng ta tự chọn lựa cha me cho chúng ta, và sự chọn lựa này căn cứ vào sự minh triết của linh hồn, vào những bài học cần học trong kiếp sống sắp tới, những nghiệp quả phải trả, những mối quan hệ xã hội gia đình nào đó …. Từ đó, cha me được chọn sẽ cung cấp cho ta một thể xác tiềm ẩn những khuynh hướng (predispositions) bệnh tật nào đó. Do đó, khi sinh ra chúng ta đã mang theo mình những khuynh hướng bệnh tật tiềm ẩn, những tố bẩm bệnh tật nầy không phải do cha me di truyền lại cho chúng ta, mà chính là do nghiệp quả chúng ta khiến linh hồn chọn thể xác như thế. Khi đọc những điều nầy chúng ta liên tưởng đến câu nói của người Việt chúng ta “không ai chọn cửa để sinh ra” là không đúng với giáo lý huyền môn.
2. Những bệnh tật chung của nhân loại, mà chúng ta cùng chia sẽ với toàn thể nhân loại. Đức DK liệt kê có ba loại bệnh như thế là bệnh hoa liễu, bệnh ung thư, và bệnh lao. Các bệnh nầy gắn liền với lịch sử của ba giống dân chánh trên địa cầu là giống dân Lemurian, giống dân Atlatean, và giống dân chánh thứ năm là giống dân Aryan. Mỗi bệnh tật phát triển mạnh trong từng giống dân như sự trừng phạt của thiên nhiên (Luật Nhân Quả) đối với những tội lỗi của từng giống dân đó. Các bệnh tật nầy phát triển mạnh đến nỗi mầm bệnh của các bệnh nầy tiềm ẩn trong lòng đất của địa cầu, do con người mang bệnh khi chết chôn vào lòng đất tuôn vào lòng đất các mầm bệnh đó trong hàng triệu năm qua. Khi sinh ra, mỗi người đều mang theo các mầm bệnh nầy trong người mình, chờ cơ hội phát sinh.
3. Các bệnh tật do bản thân sự “tương đối bất toàn” của đấng chủ quản hành tinh chúng ta– đấng Hành Tinh Thượng đế.
Bài viết sau đây trích dịch từ quyển Esoteric Healing nói về ba loại bệnh chung của nhân loại, nguồn gốc huyền bí của nó.
1. CÁC BỆNH TẬT CỦA NHÂN LOẠI KẾ THỪA TỪ QUÁ KHỨ
(Diseases of Humanity, Inherited from the Past)
Lịch sử hiện nay chỉ nghiên cứu một ít của quá khứ, và mặc dù nhà sử học và nhà khoa học giác ngộ có thể nới rộng lịch sử của nhân loại đến hằng triệu năm, người ta không biết gì về các giống dân đã sống cách đây hằng triệu năm; chúng ta không biết gì về nền văn minh đã phồn thịnh vào thời kỳ đầu của giống dân Atlantis cách đây 12 triệu năm; chúng ta cũng không biết được chút nào về nền văn minh cổ Lemuria hơn 15 triệu năm qua; và chúng ta càng không biết về giai đoạn bình minh của nhân loại 21 triệu năm trước, khi nhân loại vào thời đó khó có thể được gọi là “người”, và còn liên hệ chặt chẽ với giới thú vật đến nỗi chúng ta gọi họ bằng danh xưng lượm thượm là “người thú” (“animal – man”).
History, as studied today, goes back but a little way and although the enlightened historian and scientist may extend the story of humanity to millions of years, there is naught known about the races of men who lived those millions of years ago; naught is known of the civilization which flourished in early Atlantean times twelve million years ago; naught is known at all of the still more ancient Lemurian civilization which goes back more than fifteen million years; still less is known of that twilight period which existed twenty-one million years ago when men were scarcely human and when they were so closely related to the animal kingdom that we call them by the cumbersome name of “animal-man.”
Trong suốt giai đoạn rộng lớn từ thời ấy và hiện nay, vô số người đã sống, yêu thương và học hỏi kinh nghiệm; thể xác của họ đã hoà nhập vào cát bụi của địa cầu, và mỗi người đã đóng góp một cái gì đó mà họ đã thu thập được trong kinh nghiệm sống – cái đóng góp nầy khác hẳn với những gì mà họ đóng góp cho đời sống của linh hồn trên cõi riêng của nó. Điều được đóng góp này đã làm thay đổi các nguyên tử và tế bào của thể xác theo một cách nào đó, và cái được hoạch đắc đó, khi đến đúng lúc, lại được phóng thích trở lại vào lòng đất của địa cầu. Mỗi linh hồn khi rút lui khỏi xác thân lại tiếp tục tái sinh xuống trần gian nhiều lần, và nhiều triệu linh hồn hiện nay đang ở đây, đặc biệt là những linh hồn hiện hữu vào cuối thời kỳ Atlantis, và do đó, họ là tinh hoa và sản phẩm cao nhất của giống dân nặng về cảm xúc đó. Họ mang theo họ các tố bẩm (predispositions – bản chất dễ mắc bệnh) và các khuynh hướng bẩm sinh mà lịch sử đã qua của họ đã phú cho họ.
During the vast period between then and now, myriads of people have lived and loved and experienced; their bodies have been absorbed into the dust of the earth and [227] each has contributed something which they have gained during life experience—something different, however, to that which they contribute to the life of the soul on its own plane. This something contributed has altered in some way the atoms and cells of the physical body, and that gained something has in due time been released again into the soil of the planet. Each soul, withdrawn from the body, has come to the earth repeatedly, and many millions are here today, particularly those who were present in later Atlantean times and who are, therefore, the flower and the highest product of that highly emotional race. They bring with them the predispositions and the innate tendencies with which their past history has endowed them.
Do đó, bạn cần ghi nhớ rằng cái xác thân mà con người hiện nay khoác lấy được kiến tạo bằng thứ vật chất rất cổ xưa, và cái chất liệu được sử dụng đã bị nhiễm hay bị chi phối bởi lịch sử của quá khứ. Ngoài ý tưởng nầy còn có hai điều khác phải lưu ý: thứ nhất, các linh hồn khi tái sinh tự thu hút loại vật chất mà chúng cần dùng để kiến tạo các thể bên ngoài của chúng, và loại vật chất này phải đáp ứng được vài khía cạnh nào đó của bản thể tinh anh hơn của họ. Thí dụ, nếu ham muốn vật chất chi phối họ thì chất liệu của thể xác họ sẽ phải đáp ứng được thôi thúc đặc biệt đó. Thứ hai, mỗi thể xác mang theo nó các hạt giống của luật quả báo tất yếu nếu các chức năng của nó bị lạm dụng. Tội lỗi lớn lao nguyên thuỷ ở thời kỳ Lemuria có bản chất là tính dục, và nguyên do của nó không chỉ do các khuynh hướng bẩm sinh cố hữu mà còn do mật độ dân số quá lớn của nền văn minh thời ấy, và cũng do sự gần gũi chặt chẽ với giới thú vật. Nguồn gốc của các bệnh giang mai xuất phát từ thời kỳ này.
It should therefore be borne in mind that the physical bodies in which humanity now dwells are constructed of very ancient matter and that the substance employed is tainted or conditioned by the history of the past. To this concept must be added two others: First, that incoming souls draw to themselves the type of material, with which they must construct their outer sheaths, and that this will be responsive to some aspect of their subtler natures; if, for instance, physical desire conditions them, the material of their physical vehicle will be largely responsive to that particular urge. Secondly, each physical body carries within itself the seeds of inevitable retribution, if its functions are misused. The great original sin in Lemurian times was sexual in nature, and due largely not only to inherent tendencies, but to the extraordinarily dense population of its civilization and to the close relation of the animal kingdom. The origin of the syphilitic diseases traces back to these times.
Người thiếu hiểu biết có một ý tưởng đẹp đẽ rằng các giống dân nguyên thủy đều không bị loại bệnh tật đó, và các bệnh về tính dục và hậu quả của chúng chủ yếu là các bệnh xuất phát từ nền văn minh. Dưới nhãn quang huyền bí thì sự thực không như thế. Sự hiểu biết chính xác bác bỏ điều đó. Trong buổi ban sơ của nhân loại, có sự giao phối khác loài (mismating), tình trạng hỗn tạp tính dục và hàng loạt các việc đồi trụy xảy ra, và theo ngôn từ của một số sách cổ nhất thuộc Văn Khố của các Chân sư, chúng ta đọc thấy như sau:
“Địa cầu chịu tổn thất lớn, và cát bụi trở về cát bụi. Đất đai bị ô nhiễm, không tinh khiết, quay trở lại với đất đai. Như vậy, sự sống xấu xa thâm nhập vào tình trạng tinh khiết nguyên sơ của bà mẹ cổ xưa. Cái xấu ẩn sâu trong lòng đất, và từ thời này qua thời nọ nó phát lộ vào các hình hài. Chỉ có lửa và đau khổ mới có thể thanh tẩy bà mẹ khỏi cái xấu xa mà các con của bà đã mang đến cho bà”.
There is a beautiful idea in the minds of the ignorant that primitive races are free from that type of contamination and that the many sexual diseases and their results are predominantly the diseases of civilization. This is not so [228] from the occult angle of vision. True knowledge disproves it. In the infancy of the race, a great mismating, promiscuity and series of perversions took place, and in the language of some of the most ancient books in the Masters’ Archives we read:
“earth took its toll and earth to earth, polluted and impure, returned to earth; thus evil life entered the pristine cleanliness of the ancient mother. Deep in the soil the evil lies, emerging into form from time to time, and only fire and suffering can cleanse the mother of the evil which her children have given unto her.”
Giống dân Lemuria thực tế đã tự hủy diệt mình do việc lạm dụng luân xa xương cùng, vốn là luân xa linh hoạt nhất và quan trọng nhất vào thời đó. Vào thời Atlantis, chính luân xa tùng thái dương mới là mục tiêu quan chủ yếu của “luồng hỏa đi vào”. Như tôi đã nói trước đây, công việc của Thánh Đoàn vào thời Lemuria là giảng dạy cho nhân loại còn ấu thơ hiểu được bản chất, ý nghĩa và tầm quan trọng của thể xác, cũng như trong giống dân kế tiếp, tình cảm được thúc đẩy và là mục tiêu chú tâm chính yếu, còn trong giống dân của chúng ta, thể trí là mục tiêu của sự thúc đẩy, kích thích. Điểm đạo đồ thời Lemuria là người đã hoàn toàn kiểm soát được thể xác, và Hatha-yoga là sự thực hành tâm linh nổi bật thời bấy giờ. Theo thời gian, môn này được thay thế bằng pháp môn Laya Yoga, là pháp môn giúp kích hoạt các luân xa trong thể dĩ thái (trừ luân xa cuống họng và luân xa đỉnh đầu) đi vào hoạt động. Đây không phải là loại hoạt động khả dĩ hiện nay, bởi vì, chúng ta nên nhớ rằng, các Chân Sư thời đó không có được sự phát triển hay là sự hiểu biết của các Chân Sư ngày nay, trừ các ngoại lệ duy nhất là các Chân sư đến từ các hệ hành tinh khác để giúp đỡ người thú và nhân loại sơ khai.
The Lemurian race practically destroyed itself, owing to its misuse of the sacral center, which was at that time the most active and the dominant center. In Atlantean days it was the solar plexus center which was the prime objective of the “entering fire.” The work of the Hierarchy in Lemurian days was, as I have told you elsewhere, to teach infant humanity the nature, meaning and significance of the physical vehicle, just as in the next race, the emotional was fostered and the major object of attention, and in our race, it is the mind which is subjected to stimulation. The initiate in Lemurian times was one who had completely mastered the control of the body, and hatha-yoga was then the outstanding spiritual practice. This, in time, was superseded by laya-yoga, which brought all the centers in the etheric body (except the throat and head centers) into functioning activity. This is not the type of activity which is now possible, because it must be remembered that the Master in those days had not the development or the understanding of the Masters of today, the only exceptions being Those Who had come from other schemes and spheres to aid animal-man and primitive humanity.
A. CÁC BỆNH HOA LIỄU VÀ GIANG MAI (Venereal and Syphilitic Diseases)
Song song với mọi hoạt động của Thánh Đoàn là hoạt động của Bàng môn tả đạo, đây là điều luôn luôn xảy ra và đang xảy ra hiện nay. Tác động của họ nhắm vào luân xa xương cùng, và đã gây ra một tình trạng tệ hại nhất làm suy yếu sức chịu đựng của cơ thể người, làm gia tăng các đòi hỏi của bản chất tính dục do sự kích thích của luân xa xương cùng, được gây ra một cách giả tạo bởi Tà đạo (Black Lodge) và nó đã tạo ra nhiều liên hệ suy đồi và các mối quan hệ xấu xa khắp nơi.
Paralleling all the activity of the Great White Lodge [229] (as was always the case and is the case today) was the activity of the dark forces. Their effects had to be brought about through the medium of the sacral center, and thus a most vicious situation came about which weakened the stamina of the human body, which greatly increased the demands of the sex nature through the stimulation of the sacral center, artificially brought about by the Black Lodge, and which produced many unholy alliances and widespread evil relations.
Một định luật vĩ đại mới của thiên nhiên lúc bấy giờ do Đức Hành Tinh Thượng Đế đặt ra, được diễn đạt một cách rất bất toàn như sau “Linh hồn nào phạm tội sẽ chết”. Ta có thể diễn giải nó rõ ràng hơn bằng cách nói “Kẻ nào lạm dụng những gì mà mình đã tạo ra, kẻ ấy sẽ chứng kiến nó suy sụp bên trong chính nó”.
A great new law of nature was then imposed by the planetary Logos which has been expressed (very inadequately) by the words, “The soul that sinneth, it shall die.” This law could be better expressed by saying, “He that misuses that which he hath built will see it fall from forces within itself.”
Trải qua nhiều thế kỷ, và giống dân Lemuria tuân theo các mãnh lực xấu xa của phàm ngã, dần dần các dạng bệnh hoa liễu đầu tiên xuất hiện, cuối cùng toàn thể nhân loại bị lây bệnh đó và chết dần đi, thiên nhiên đã gây tổn thất lớn và đòi hỏi cái giá phải trả không hề lay chuyển của nó. Ở đây bạn có thể thắc mắc tại sao các cư dân đầu tiên của hành tinh chúng ta có thể chịu trách nhiệm, bởi vì không có tội lỗi khi mà con người không có ý thức trách nhiệm và không cố ý để làm sai. Vào thời đó, Thánh Đoàn đã có các phương pháp giảng dạy riêng cho nhân loại ấu thơ này, cũng như đứa bé nhỏ nhất ngày nay có thể được dạy để cố nhịn một vài thói quen của thể xác. Nhân loại lúc bấy giờ biết rõ những gì tệ hại, bởi vì các chứng cớ của tệ hại đó rất rõ về mặt vật chất và hoàn toàn nhận thức được dễ dàng. Hình phạt là điều hiển nhiên và các kết quả đến tức thời; các Huấn Sư của nhân loại đã đảm bảo chắc chắn rằng nhân và quả được nhanh chóng ghi nhận.
As the centuries slipped away and the Lemurian race submitted to the evil impulses of the animal nature, gradually the earliest type of venereal disease made its appearance; eventually the entire race was riddled with it and died out, nature taking its toll and exacting its inexorable price. You might here ask how these early inhabitants of our planet could be held responsible for there is no sin where there is no sense of responsibility and no consciousness of wrong doing. The Hierarchy in those days had its own methods of teaching these infant peoples, just as the smallest child can be taught today to refrain from certain physical habits. Humanity then knew well what was evil, because the evidences of that evil were physically apparent and quite easily perceived. The penalty was obvious and the results immediate; the Teachers of the race saw to it that cause and effect were quickly to be noted.
Lúc đó cũng xuất hiện các khuynh hướng đầu tiên hướng về hôn nhân, như để phân biệt với tình trạng tình dục bừa bãi; việc thành lập các đơn vị gia đình đã trở nên vấn đề được chú ý, và là mục tiêu đối với những người tiến hóa cao nhất. Đây là một trong các nhiệm vụ đầu tiên mà Thánh Đoàn đảm nhận, và là cố gắng đầu tiên hướng về một hình thức hoạt động tập thể nào đó, truyền đạt bài học đầu tiên về tinh thần trách nhiệm. Vào thời đó đơn vị gia đình không ổn định như ngày nay, nhưng ngay cả sự xuất hiện trong thời gian tương đối ngắn của nó đã là một bước tiến kỳ diệu. Sự phân chia các đơn vị gia đình và sự phát triển của ý thức trách nhiệm đã tiến triển vững vàng cho đến khi nó đạt đến tột đỉnh trong hệ thống hôn nhân hiện tại của chúng ta, và sự nhấn mạnh của phương Tây về chế độ một vợ một chồng. Nó đã dẫn tới sự kiêu hãnh Tây phương về dòng dõi và các phổ hệ gia đình, sự quan tâm của chúng ta vào các khoa phổ hệ và các mối quan hệ gia tộc, và sự ghê sợ hoàn toàn của nhà tư tưởng Tây phương về các bệnh hoa liễu khi chúng tác động vào gia đình và con cháu của họ.
At this time there also arose the first tendencies to marriage, as differentiated from promiscuity; the formation of family units became the subject of attention and [230] a goal for the most highly evolved. This was one of the first tasks undertaken by the Hierarchy and the first effort toward any form of group activity, conveying the first lesson in responsibility. The family unit was not stable as it can be now, but even its relatively brief tenure was a tremendous step forward; the segregation of the family unit and the growth of the sense of responsibility has gone steadily forward until it has culminated in our present system of marriage and our stress in the Occident upon monogamy; it has led to the western pride in family strains and pedigrees, our interest in genealogies and relationships, and the complete horror of the occidental thinker over the syphilitic diseases as they affect families and their offspring.
Tuy nhiên, có hai điều đáng chú ý nhất đang xảy ra ngày nay. Đơn vị gia đình, trên bình diện thế giới, đang bị gãy vỡ do chiến tranh xảy ra, và – ở một mức độ nhỏ hơn – do các quan điểm hiện đại hơn về vấn đề hôn nhân và ly dị. Thứ hai là việc khám phá ra các cách chữa trị hiệu quả và nhanh chóng các bệnh về tính dục, và điều này có thể có khuynh hướng làm cho con người thiếu thận trọng hơn. Tuy nhiên, khi các cách chữa trị trở nên hoàn thiện về lâu dài sẽ bảo vệ nhân loại, và các thể xác sau khi chết hoàn trả lại cho đất không bị nhiễm các mầm dịch bệnh vốn đã lây nhiễm địa cầu trong vô vàn thời đại. Như vậy, sẽ dẫn đến sự thanh lọc từ từ đất đai. Việc gia tăng thực hành hỏa táng cũng sẽ góp phần vào tiến trình thanh lọc này. Tiêu hủy bằng lửa và bằng sức nóng cao độ được tạo ra thông qua các phương pháp quân sự cũng hỗ trợ điều nầy, và trong một triệu năm sắp tới, chúng ta sẽ thấy bệnh giang mai (truyền lại từ thời Lemuria) biến mất cả trong nhân loại lẫn trong đất đai của hành tinh.
Two most interesting things are, however, happening today. The family unit, on a worldwide scale, is being broken up, owing to the fortunes of war and—on a smaller scale—owing to the more modern views concerning marriage and divorce. Secondly, definite and rapid cures for the sexual diseases are being discovered, and these may tend to make people more reckless. When, however, they are perfected, they will in the long run safeguard the race and will return bodies to the soil after death freed from the plague which has contaminated the earth for endless ages. There will thus be brought about a gradual purifying of the soil. The growth of the practice of cremation will also aid this process of purification. Destruction by fire and the intensity of the heat engendered by applied military methods are also helping, and during the next one million years we shall see syphilis (inherited from Lemuria) stamped out, both in the human family and in the soil of the planet.
Thời gian trôi qua, nhân loại tiến vào giai kỳ phát triển Atlantis. Việc kiểm soát một cách có ý thức thể xác đã rơi xuống dưới ngưỡng tâm thức; hệ quả là thể dĩ thái trở nên mạnh mẽ hơn (một sự kiện thường ít được xem xét), và thể xác phản ứng ngày càng giống như một bộ máy tự động đối với ấn tượng và tác động chỉ đạo của bản chất dục vọng ngày càng phát triển. Dục vọng đã trở thành một cái gì đó khác hơn là chỉ đáp ứng với các thôi thúc thú tính vật chất và các bản năng nguyên thủy, được hướng đến các đối tượng và các mục tiêu bên ngoài đối với cơ thể, về việc chiếm hữu tài sản vật chất, và về những gì mà (khi đã nhìn thấy và thèm muốn) có thể được chiếm hữu.
As the ages passed away, humanity entered into the Atlantean stage of development. The conscious control of the physical body dropped below the threshold of consciousness; the etheric body became consequently more potent [231] (a fact not oft considered), and the physical body reacted increasingly like an automaton to the impression and the direction of a steadily developing desire nature. Desire became something more than simply response to animal physical urges and to the primitive instincts, but was directed to objects and objectives extraneous to the body, towards material possessions and towards that which (when seen and coveted) could be appropriated.
Cũng như các tội lỗi lớn vào thời Lemuria (nếu đó có thể được gọi là tội lỗi theo ý nghĩa thực sự của từ đó, bởi vì trí tuệ của nhân loại thời đó còn quá thấp kém) thường là do lạm dụng tính dục, thế nên, tội lỗi lớn của con người thời Atlantis là trộm cắp, lan rộng và phổ biến khắp mọi nơi. Các mầm giống của sự xâm lược và của tính hám lợi cá nhân đã bắt đầu tự biểu lộ, lên đến cực điểm trong cuộc đại chiến (như được nhắc đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm) giữa các đấng Bạch Diện với các đấng Hắc Diện (Lords of the Shining Countenance and the Lords of the Dark Face). Để giành được những gì mà họ thèm khát và cảm thấy cần, những người tiến hóa cao nhất của giống dân đó bắt đầu thực hành ma thuật. Tôi không thể phác thảo cho bạn bản chất và các phép thực hành ma thuật thời Atlantis thông qua việc kiểm soát khống chế các tinh linh (elementals) và các hình thể sự sống mà ngày nay đã bị đẩy lùi vào chốn ẩn dật, nơi mà nhân loại không thể tiếp xúc được. Tôi cũng không thể chỉ cho bạn các phương pháp đặc biệt được dùng để hoạch đắc những gì mà họ ham muốn, các Thần chú (Words of Power) được sử dụng, và việc thực hành các nghi lễ được hoạch định cẩn thận bởi những kẻ muốn làm giàu và chiếm đoạt những gì mà họ ham muốn, bất kể thiệt hại ra sao cho kẻ khác.
Just as the major sins of Lemurian times (if they could be called sins in any true sense, because of the low intelligence of the race) were through the misuse of sex, so the major sin of the Atlantean people was theft—widespread and general. The seeds of aggression and of personal acquisitiveness began to show themselves, culminating in the great war (as related in The Secret Doctrine) between the Lords of the Shining Countenance and the Lords of the Dark Face. To procure what they coveted and felt they needed, the most highly evolved of that race began to practice magic. It is not possible for me to outline to you the nature and practices of Atlantean magic with its control of elemental and of forms of life which have now been driven back into retreat and are inaccessible to humanity; neither can I indicate to you the particular methods used to acquire what was desired, the Words of Power employed and the carefully planned rituals which were followed by those who sought to enrich themselves and to take what they wanted, no matter what the cost to others.
Ma thuật này là sự bắt chước một cách lạc hướng của Chánh Thuật (White Magic) được sử dụng công khai vào thời đó, trước khi có trận đại chiến giữa Lực Lượng Chánh đạo và Lực lượng Tà đạo. Huyền thuật thuộc loại đúng đắn rất quen thuộc với người Atlantis, và được các Thành Viên trong Thánh Đoàn sử dụng, các Đấng này được giao nhiệm vụ dẫn dắt nhân loại và chiến đấu chống lại tà đạo lan tràn ở chốn cao cả. Cũng loại tà đạo đó lại lần nữa đang sẵn sàng gây chiến và đang bị những người có thiện chí chống trả dưới sự hướng dẫn của Thánh Đoàn. Vào thời Atlantis, sự xa hoa lên đến mức tột đỉnh mà nền văn minh tự hào của chúng ta, không biết gì về nó và cũng chưa bao giờ đạt tới. Một vài dấu vết mờ nhạt về điều đó đã đến với chúng ta qua các truyền thuyết, từ nước Ai Cập cổ đại, hoặc từ các khám phá của khảo cổ học và các thần thoại cổ xưa. Có một sự tái diễn mối nguy hại thuần túy thời Atlantis và sự độc ác đó vào những ngày suy sụp của Đế Quốc La Mã. Đời sống trở nên bị ô nhiễm bởi làn khí độc của sự ích kỷ tột cùng và chính các ngọn suối của đời sống cũng trở nên bị ô nhiễm. Con người sống chỉ để hưởng thụ sự xa hoa cực điểm và sở hữu cải vật chất quá thừa thãi. Họ bị bao phủ bởi dục vọng và đeo đuổi giấc mơ bất tử, muốn sống mãi mãi, thu tóm ngày càng nhiều tất cả những gì mà họ ham muốn.
This magical work was the misdirected travesty of the White Magic so openly used in those days, prior to the great war between the Forces of Light and the Forces of Evil. Magic of the right kind was very familiar to the Atlantean people, and was used by those Members of the Hierarchy Who were entrusted with the guidance of the race and Who were combating rampant evil in high places. That same evil is again upon the warpath and is being [232] fought by the men of goodwill, under the direction of the Great White Lodge. Heights of luxury were reached in Atlantis of which we, with all our boasted civilization, know nothing and have never achieved. Some faint traces of it have come to us from legends and from ancient Egypt, from archeological discovery and old fairy tales. There was a recurrence of pure Atlantean mischief and wickedness in the decadent days of the Roman Empire. Life became tainted by the miasma of unadulterated selfishness and the very springs of life itself became polluted. Men only lived and breathed in order to be in possession of the utmost luxury and of a very plethora of things and of material goods. They were smothered by desire and plagued by the dream of never dying but of living on and on, acquiring more and more of all that they desired.
(Còn tiếp)