Chia sẻ:
Trong quyển Esoteric Healing đức DK có viết về dân tộc Do Thái như là một minh chứng cho việc thực thi của luật Nhân Quả. Ngài cũng đề cập đến cách giải quyết vấn đề dân tộc Do Thái. Trong nhóm đệ tử của Ngài có nhiều người là người Do Thái như Regina Keller (RSU)—bạn thân của A.A. Bailey, Roberto Assagioli (FCD)… Giáo sư Michael D. Robbins cũng là một người gốc Do Thái. Đặc điểm của người Do Thái là sự chia rẻ, vật chất. Nhưng họ cũng là những người tiến hoá rất cao, thông minh, nghệ sĩ. Ngài có nhắc đến trong thế kỷ XX Thánh đoàn sẽ gởi một số đệ tử tái sinh vào dân tộc Do Thái nhằm giải quyết vấn đề Do Thái.
Minh chứng nổi bật nhất của Luật Nhân Quả là dân tộc Do Thái. Mọi quốc gia đều minh chứng cho định luật này, nhưng tôi chọn dân Do Thái bởi vì mọi người biết rõ lịch sử của họ, tương lai và định mệnh của họ là chủ đề và mối quan tâm khắp thế giới. Dân tộc Do Thái luôn có một ý nghĩa tượng trưng; họ tóm tắt lại trong chính họ – với tư cách một quốc gia qua nhiều thời đại –vực sâu của điều ác và đỉnh cao của phẩm chất thiêng liêng của con người. Lịch sử xâm lấn của họ như được kể lại trong Kinh Cựu Ước ngang bằng với tội ác của người Đức ngày nay (*); tuy nhiên Đức Christ lại là một người Do Thái, và chính chủng tộc Hebrew đã tạo ra Ngài. Đừng bao giờ quên điều đó. Người Do Thái là kẻ xâm lược vĩ đại; họ bóc lột dân Ai Cập và họ chiếm Đất Hứa (Promised Land) bằng mũi gươm, không dung tha cho đàn ông, đàn bà, trẻ con. Lịch sử tôn giáo của họ đã được xây dựng xung quanh một vị thần Jehovah duy vật, tham lam, tham ăn, tán đồng và khuyến khích sự xâm lược. Lịch sử của họ tiêu biểu cho lịch sử của những kẻ xâm lược, họ tự biện hộ bằng niềm tin rằng họ đang thực hiện thiên ý (divine purpose), giành giựt tài sản của người khác bằng tinh thần tự vệ, tìm kiếm một lý do thích hợp cho họ để bào chữa cho sự độc ác bất công của hành vi đó của họ. Đất Palestine bị dân Do Thái chiếm bởi vì đó là “một vùng đất tràn đầy sữa và mật ong“, và họ tuyên bố rằng hành động của họ là tuân theo mệnh lệnh thiêng liêng. Sau này, khoa biểu tượng cho ta thấy nhiều điều đáng chú ý nhất. Họ chia thành hai nửa: người Israelites với Tổng Hành Dinh ở Samaria và người Jews (nghĩa là hai hay ba bộ lạc đặc biệt trong số 12 bộ lạc) ở xung quanh Jerusalem. Tính Nhị Nguyên (Dualism) thấm đượm các đức tin tôn giáo của họ; họ được dạy dỗ bởi hai trường phái Sadducees hoặc Pharisees, và cả hai nhóm này thường xuyên xung đột với nhau. Đức Christ đã xuất hiện như là một thành viên của người Jews và họ đã chối bỏ Ngài.
(*) tội ác của Đức Quốc Xã trong chiến tranh thế giới thứ 2
The outstanding evidence of the Law of Cause and Effect is the Jewish race. All nations prove this Law, but I choose to refer to the Hebrew peoples because their history is so well known and their future and their destiny are subjects of worldwide, universal concern. The Jews have always had a symbolic significance; they sum up in themselves—as a nation, down the ages—the depths of human evil and the heights of human divinity. Their aggressive history as narrated in the Old Testament is on a par with present-day German accomplishment; yet Christ was a Jew and it was the Hebrew race which produced Him. Let this never be forgotten. The Jews were great aggressors; they despoiled the Egyptians and they took the Promised Land at the point of the sword, sparing neither man, woman nor child. Their religious history has been built around a materialistic Jehovah, possessive, greedy and endorsing and encouraging aggression. Their history is symbolic of the history of all aggressors, rationalizing themselves into the belief that they are carrying out divine purpose, wresting away from people their property in a spirit of self-defense and finding some [264] reason, adequate to them, to excuse the iniquity of their action. Palestine was taken by the Jews because it was “a land flowing with milk and honey,” and the claim was made that the act was undertaken in obedience to divine command. Later, the symbolism gets most interesting. They divided into two halves: the Israelites with headquarters at Samaria, and the Jews (meaning two or three special tribes out of the twelve) locating around Jerusalem. Dualism ran through their religious beliefs; they were schooled by the Sadducees or the Pharisees, and these two groups were in constant conflict. Christ came as a member of the Jewish race and they renounced Him.
Ngày nay, Luật Nhân Quả đang tác động và dân Do Thái đang trả giá, một cách biểu tượng cũng như thực sự, cho tất cả những gì họ đã làm trong quá khứ. Họ đang chứng minh những tác động sâu rộng của Định Luật. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ đại diện cho văn hóa và văn minh. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ là nhân loại. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ đã đứng biệt lập, thể như là họ đã được chọn để tồn tại như thế. Họ xem mình như là dân tộc được Chúa chọn và có một ý thức bẩm sinh về số phận cao cả đó, nhưng họ quên mất ý nghĩa tượng trưng của điều đó: chính Nhân Loại mới là dân tộc được Chúa chọn, chứ không phải là một thành phần bé nhỏ không quan trọng của nhân loại. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ ao ước sự hợp nhất và hợp tác, tuy nhiên, không biết hợp tác như thế nào. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ là “Kẻ Hành Hương Vĩnh Cửu”; họ là nhân loại đang lang thang qua các mê lộ của ba cõi tiến hóa của nhân loại, và nhìn bằng đôi mắt khát khao về miền đất hứa. Nói một cách thực tế và biểu tượng, họ giống như như đa phần nhân loại, không chịu tìm hiểu mục đích tinh thần ẩn dưới mọi hiện tượng vật chất, bác bỏ Đức Chúa (Christ) nội tâm (như là cách đây nhiều thế kỷ họ đã làm đối với Đức Christ trong vùng đất của họ), bám chặt vật chất và bác bỏ mọi sự việc tinh thần. Họ đòi hỏi điều được gọi là phục hồi vùng đất Palestine, giành lại đất đó từ những người đã cư ngụ ở đó từ nhiều thế kỷ; và bởi vì họ tiếp tục đặt trọng tâm vào sự sở hữu vật chất, họ không nhìn thấy giải pháp đích thực của vấn đề, nói một cách biểu tượng và thực tiễn, rằng họ phải được đồng hóa vào mọi quốc gia và hòa lẫn với mọi chủng tộc, và như thế sẽ thể hiện nhận thức về một Nhân Loại Duy Nhất.
Today the law is working, and the Jews are paying the price, factually and symbolically, for all they have done in the past. They are demonstrating the far-reaching effects of the Law. Factually and symbolically, they stand for culture and civilization; factually and symbolically, they are humanity; factually and symbolically, they stand as they have ever chosen to stand, for separation. They regard themselves as the chosen people and have an innate consciousness of that high destiny, forgetting their symbolic role and that it is Humanity which is the chosen people and not one small and unimportant fraction of the race. Factually and symbolically, they long for unity and cooperation, yet know not how to cooperate; factually and symbolically, they are the “Eternal Pilgrim”; they are mankind, wandering through the mazes of the three worlds of human evolution, and gazing with longing eyes towards a promised land; factually and symbolically, they resemble the mass of men, refusing to comprehend the underlying spiritual purpose of all material phenomena, rejecting the Christ within (as they did centuries ago the Christ within their borders), grasping for material good and steadily rejecting the things of the spirit. They demand the so-called restitution of Palestine, [265] wresting it away from those who have inhabited it for many centuries; and by their continued emphasis upon material possession they lose sight of the true solution, which is that, symbolically and factually again, they must be assimilated into all the nations, and fused with all the races, thus demonstrating recognition of the One Humanity.
Có một sự kiện lý thú đáng chú ý là người Do Thái (Jews) sống ở phía Nam Palestine, với thành phố chính là Jerusalem, đã thành công trong việc thực hiện điều này, và đã hòa nhập với và được đồng hóa bởi người Anh, người Hòa Lan, người Pháp, theo cách thức mà những người Israelites bị điều hành từ Samaria chẳng bao giờ làm được. Tôi nhắc lại điều này để để bạn xem xét.
Do đó, nếu người Do Thái nhớ lại định mệnh biểu tượng cao cả của họ, và nếu phần còn lại của nhân loại thấy chính họ trong dân tộc Do Thái, và nếu cả hai nhóm đặt trọng tâm về một nhân loại và ngưng nghĩ tưởng về mình theo ý nghĩa quốc gia và chủng tộc, thì Karma của nhân loại sẽ thay đổi tận gốc từ quả báo như hiện nay thành karma mang đến điều lành của tương lai.
It is interesting to note that the Jews who inhabited southern Palestine, and whose chief city was Jerusalem, have succeeded in doing this and have fused with and been assimilated by the British, the Dutch and the French in a way that the Israelites, ruled from Samaria, have never done. I commend this to you for your consideration.
If the Jewish race would recall, therefore, their high symbolic destiny, and if the rest of humanity would see themselves in the Jewish people, and if both groups would emphasize the fact of human stock and cease thinking of themselves in terms of national and racial units, the karma of humanity would radically change from the retributive karma of the present to the recompensing good karma of the future.
Nếu xem xét vấn đề này theo nhãn quang rộng rãi (nhìn lui về lịch sử cũng như nhìn tới tương lai một cách hy vọng), chính người Do Thái phải góp phần to lớn hơn vào việc giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, họ không bao giờ đối diện một cách thẳng thắn và thành thật (như là một chủng tộc) với vấn đề tại sao nhiều quốc gia, từ thời Ai Cập, đã không ưa cũng như không cần đến họ. Điều nầy tiếp tục trong nhiều thế kỷ sau đó. Đương nhiên, phải có một số lý do tiềm ẩn trong chính dân tộc khi mà phản ứng trên đối với họ là phổ biến. Cách tiếp cận của họ đối với vấn đề khủng khiếp nầy là khẩn khoản, oán trách buồn phiền hay là tuyệt vọng. Đòi hỏi của họ đối với các quốc gia phi Do Thái (Gentile nations) là xử lý vấn đề đúng đắn, và những người phi Do Thái đã thử làm điều đó. Tuy nhiên, trừ phi khi nào chính người Do Thái đối diện trực tiếp vấn đề tình hình và thừa nhận rằng, đối với họ, có thể Luật Nhân Quả đang tác động, và trừ phi họ nỗ lực để xác định những gì có ở trong họ, với tư cách là một giống dân, đã tạo ra vận mệnh đau buồn từ xa xưa của họ, vấn đề căn bản của thế giới này sẽ vẫn như vậy như từ thời vô thủy. Trong dân tộc Do Thái đã và đang có những con người vĩ đại, thánh thiện, công bằng và thiên về tinh thần, điều đó đúng không bàn cãi. Sự khái quát thì không bao giờ diễn tả chân lý đầy đủ được. Nhưng, xét vấn đề của người Do Thái trong thời gian và không gian, trong lịch sử và hiện tại, các điểm mà tôi đã đưa ra dân tộc Do Thái nên xem xét cẩn thận.
Regarding this question from the long range vision (looking backward historically as well as forward hopefully), the problem is one to which the Jews themselves must make the larger contribution. They have never yet faced candidly and honestly (as a race) the problem of why the many nations, from the time of the Egyptians, have neither liked nor wanted them. It has always been the same down the centuries. Yet there must be some reason, inherent in the people themselves, when the reaction is so general and universal. Their approach to their direful problem has been one of supplication, or of distressed complaint, or of unhappy despair. Their demand has been for the Gentile nations to put the matter right, and many Gentiles have attempted to do so. Until, however, the Jews themselves [266] face up to the situation and admit that there may be for them the working out of the retributive aspect of the Law of Cause and Effect, and until they endeavor to ascertain what it is in them, as a race, which has initiated their ancient and dire fate, this basic world issue will remain as it has been since the very night of time. That within the race there are and have been great, good, just and spiritual men is unalterably true. A generalization is never a complete expression of the truth. But, viewing the problem of the Jews in time and space, in history and today, the points which I have made will bear careful consideration by the Jews.
Những gì mà tôi đã nói không có ý nghĩa làm giảm nhẹ tội lỗi của những kẻ đã lạm dụng người Do Thái. Bạn có nhớ câu tục ngữ “hai đen không tạo được một trắng” không? Cách hành xử của các quốc gia đối với dân Do Thái (Jews) lên đến cực điểm hung bạo trong khoảng phần tư thứ hai của thế kỷ XX không có gì có thể biện minh. Định luật Nhân Quả chắc chắn phải tác động. Mặc dù nhiều việc xảy ra đối với người Do Thái có nguồn gốc lịch sử đã qua của họ, trong tinh thần chia rẽ nổi bật của họ, tính không thể đồng hóa, việc nhấn mạnh quá mức vào vật chất. Tuy nhiên, những ai đã thực hiện quả báo đó cho người Do Thái cũng phải gánh chịu khía cạnh báo phục của cùng luật trên. Ngày nay, tình trạng đã là một vòng lẩn quẩn của sai lầm và hành động sai trái, của việc trả quả và báo thù. Chính vì thế sẽ đến lúc toàn thể các quốc gia phải thảo luận về vấn đề này, và toàn thể các quốc gia ấy sẽ hợp tác để chấm dứt các thái độ sai lầm ở cả hai phía. Mọi karma có bản chất xấu đều được giải quyết bằng sự thể hiện một ý chí chấp nhận, một tình thương có tính hợp tác, một nhìn nhận thành thật về tinh thần trách nhiệm, và một sự hiệu chỉnh khéo léo về hoạt động chung hợp nhất để mang lại tốt lành cho nhân loại nói chung, chớ không chỉ sự tốt lành cho một quốc gia, một dân tộc hay một giống dân riêng biệt.
What I have said in no way mitigates the guilt of those who have so sorely abused the Jews. You have a proverb, have you not? that “two blacks do not make a white.” The behavior of the nations towards the Jews, culminating in the atrocities of the second quarter of the twentieth century, have no excuse. The law must inevitably work. Though much that has happened to the Jews originated in their past history and in their pronounced attitude of separateness and non-assimilability, and in their emphasis upon material good, yet the agents who have brought the evil karma upon them equally incur the retributive aspect of the same law; the situation has now assumed the form of a vicious circle of error and wrong doing, of retribution and revenge, and in view of this the time must come when together the nations will confer upon this problem, and together they will cooperate to bring to an end the wrong attitudes on both sides. All karma of evil nature is solved by the presentation of an accepting will, a cooperative love, a frank acknowledgement of responsibility and a skillful adjustment of united joint activity to bring about the good of humanity as a whole, and not just the good of an individual nation or people or race.
Vấn đề Do Thái sẽ không được giải quyết bằng việc chiếm hữu Palestine, bằng sự kiện cáo, đòi hỏi và bằng việc vận dụng các biện pháp tài chính. Điều đó chỉ kéo dài thêm lỗ lầm cũ và tính tham lam vật chất. Vấn đề sẽ được giải quyết bằng sự tự nguyện của người Do Thái để phù hợp với nền văn minh, với bối cảnh văn hóa và các tiêu chuẩn sinh hoạt của quốc gia mà người Do Thái có liên hệ, do họ được sinh ra hay được giáo dục tại đó, và nhờ đó họ sẽ được đồng hóa. Điều đó sẽ xảy đến nhờ sự từ bỏ lòng tự kiêu về chủng tộc và ý niệm được Chúa chọn. Điều đó sẽ xảy đến nhờ việc từ bỏ các giáo điều và các tập quán cổ xưa đang tạo ra các điểm bực bội luôn xảy ra đối với ma trận (matrix) mà người Do Thái thấy mình vướng trong ấy. Điều đó sẽ xảy đến khi lòng ích kỷ trong mối quan hệ kinh doanh và các khuynh hướng lợi dụng rõ nét của người Hebrew, thay đổi trở thành các hoạt động vô kỷ và thành thật hơn.
The Jewish problem will not be solved [267] by taking possession of Palestine, by plaint and demand and by financial manipulations. That would be but the prolongation of ancient wrong and material possessiveness. The problem will be solved by the willingness of the Jew to conform to the civilization, the cultural background and the standards of living of the nation to which—by the fact of birth and education—he is related and with which he should assimilate. It will come by the relinquishment of pride of race and of the concept of selectivity; it will come by renouncing dogmas and customs which are intrinsically obsolete and which create points of constant irritation to the matrix within which the Jew finds himself; it will come when selfishness in business relations and the pronounced manipulative tendencies of the Hebrew people are exchanged for more selfless and honest forms of activity.
Do đặc tính Cung chi phối cũng như trình độ phát triển của mình, người Do Thái nổi bật về tính sáng tạo và về mỹ thuật. Điều này họ phải nhận ra, chớ không tìm cách – như hiện nay họ đang làm – chế ngự trong mọi lãnh vực để giành lấy mọi cơ may của các dân tộc khác, và như thế mưu lợi cho riêng mình và dân tộc mình bằng cách gây thiệt hại cho người khác. Việc thoát khỏi tình trạng hiện nay sẽ xảy đến khi nào người Do Thái quên rằng mình là một người Do Thái và, trong tận thâm tâm của mình, trở thành một người Ý, một người Mỹ, người Anh, người Đức hay một người Ba Lan. Hiện nay, điều này chưa phải như thế. Vấn đề người Do Thái sẽ được giải quyết bằng hôn nhân khác chủng tộc (intermarriage); nhưng vấn đề người da đen thì không thể giải quyết như thế. Điều này sẽ hàm ý là có sự nhân nhượng và thỏa hiệp về phía người Do Thái chính thống, không phải nhân nhượng theo thời cơ, mà là nhân nhượng vì xác tín.
The Jew, owing to his rays and point of development, is outstandingly creative and artistic. This he must recognize and not seek as he now does to dominate in all fields, to grasp all opportunities away from other people, and so better himself and his own people at the expense of others. Release from the present situation will come when the Jew forgets that he is a Jew and becomes in his inmost consciousness an Italian, an American, a Britisher, a German or a Pole. This is not so at this time. The Jewish problem will be solved by intermarriage; that of the Negro will not. This will mean concession and compromise on the part of the orthodox Jews—not the concession of expediency but the concession of conviction.
Tôi cũng muốn nêu ra rằng cũng như Kinh Kabbalah và kinh Talmud (Pháp Điển Do Thái) là cách tiếp cận thứ cấp (phụ) đến chân lý nội môn, và phương pháp của các kinh đó thiên về vật chất (thể hiện nhiều cho công tác huyền thuật để liên kết một mức vật chất với một vật chất khác), kinh Cựu Ước rõ ràng là một Thánh Kinh thứ yếu, và về mặt tinh thần, không ngang tầm với kinh Bhagavad Gita, các Kinh cổ của Đông phương, và Kinh Tân Ước. Nó nhấn mạnh về vật chất và hiệu quả của nó là ghi ấn tượng một đấng Jehovah thuần tuý vật chất vào tâm thức thế gian. Chủ đề tổng quát của Cựu Ước là phục hồi biểu hiện cao nhất của minh triết thiêng liêng trong thái dương hệ thứ nhất; thái dương hệ đó tượng trưng cho công tác sáng tạo của Ngôi Ba của Thượng Đế – ngôi của thông tuệ linh hoạt tự biểu lộ qua vật chất. Trong thái dương hệ này, thế giới sáng tạo được dự trù là biểu hiện của Ngôi Hai, về tình thương của Thượng Đế. Người Do Thái không bao giờ hiểu được điều này, vì tình thương được diễn tả trong Cựu Ước là tình thương chia rẽ, chiếm hữu kỷ của Jehovah cho từng đơn vị cá biệt trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại. Thánh Paul tóm tắt thái độ mà nhân loại nên có bằng các lời: “Không có người Do Thái, cũng không có người phi Do Thái”. Karma xấu của người Do Thái hiện nay là nhằm để chấm dứt sự cô lập của họ, đưa họ đến mức từ bỏ các tham vọng vật chất, từ bỏ một tinh thần quốc gia vốn có khuynh hướng tồn tại bám vào các quốc gia khác, và để biểu lộ lòng bác ái bao quát, thay vì một bất hạnh chia rẻ.
Let me point out also that just as the Kabalah and the Talmud are secondary lines of esoteric approach to truth, and materialistic in their technique (embodying much of the magical work of relating one grade of matter to the substance of another grade), so the Old Testament is emphatically a secondary Scripture, and spiritually does not rank [268] with the Bhagavad Gita, the ancient Scriptures of the East and the New Testament. Its emphasis is material and its effect is to impress a purely materialistic Jehovah upon world consciousness. The general theme of the Old Testament is the recovery of the highest expression of the divine wisdom in the first solar system; that system embodied the creative work of the third aspect of divinity—that of active intelligence, expressing itself through matter. In this solar system, the created world is intended to be the expression of the second aspect, of the love of God. This the Jew has never grasped, for the love expressed in the Old Testament is the separate, possessive love of Jehovah for a distinct unit within the fourth or human kingdom. St. Paul summed up the attitude which humanity should assume in the words: “There is neither Jew nor Gentile.” The evil karma of the Jew today is intended to end his isolation, to bring him to the point of relinquishing material goals, of renouncing a nationality that has a tendency to be somewhat parasitic within the boundaries of other nations, and to express inclusive love, instead of separate unhappiness.
Còn thái độ của người phi Do Thái là gì? Điều tuyệt đối cần thiết là các quốc gia khác gặp gỡ người Do Thái tại hơn nửa đoạn đường khi họ đạt đến mức thay đổi – một cách chậm chạp và từ từ – sự chính thống về quốc tịch của mình. Điều cần yếu là họ ngưng sợ hãi và khủng bố, thôi thù oán và không đặt ra các bức tường ngăn cản sự hợp tác. Thái độ bài Do Thái đang gia tăng trên khắp thế giới, không thể được bào chữa được từ cái nhìn của Thượng Đế và con người. Ở đây, tôi không nhắc đến các sự tàn ác đáng kinh sợ của những người dân Đức bị ám. Đằng sau việc nầy là lịch sử ẩn tàng của các mối liên hệ thời Atlantis mà tôi không cần đi sâu vào, bởi vì tôi không thể chứng minh cho bạn sự thật về các phát biểu của tôi. Tôi nhắc đến lịch sử của hai ngàn năm qua và đến cách cư xử hằng ngày của người phi Do Thái ở khắp nơi. Phải có một nỗ lực rõ rệt về phía các công dân ở mọi xứ để đồng hóa người Do Thái, để tạo hôn nhân dị chủng với họ, và để không xem các tập quán cổ xưa của tư tưởng và các mối liên hệ xấu thời trước như các bức tường ngăn cách. Con người ở khắp nơi phải xem như là một vết nhơ trên quốc gia của họ nếu tại đó xuất hiện tư tưởng đối lập cũ – người Do Thái và phi Do Thái. Không có người Do Thái mà cũng không có người phi Do Thái; chỉ có nhân loại. Cuộc thế chiến (1914 – 1945) nên được xem như đã chấm dứt mối thù địch xưa giữa người Do Thái và phi Do Thái, và hai nhóm hiện nay có cơ hội để khởi sinh một cơ hội sống mới mẻ hơn, hạnh phúc hơn và một liên hệ hợp tác chân thật trên cả hai phía. Tiến trình đồng hóa sẽ chậm lại, vì tình trạng hiện nay cổ xưa đến nỗi các thói quen tư duy, các tập tục và thói quen chia rẽ đã hằn sâu, khó mà vượt qua được. Nhưng các thay đổi cần thiết có thể được tạo ra nếu thiện chí dẫn dắt mọi lời nói, ngôn từ, và cách chung sống với nhau. Thánh Đoàn không thấy có sự phân biệt nào. Đấng Lãnh Đạo của Thánh Đoàn (đức Christ), mặc dù lúc này không ở trong thân xác người Do Thái, nhưng đã đạt được quả vị tinh thần cao nhất của nhân loại trong khi đang ở trong thân xác người Do Thái. Thánh Đoàn cũng đang gởi một vài đệ tử vào dân tộc Do Thái, họ sẽ làm việc với ý thức hoàn toàn để thay đổi tình thế hiện nay. Ngày nay, có một số ít người Do Thái không suy tưởng theo cách của người Do Thái; họ không bận tâm với vấn đề Do Thái mà loại bỏ tất cả vấn đề khác, và họ đang nỗ lực để hòa nhập mọi người thành một nhân loại duy nhất, và như vậy sẽ khoả lấp được khoảng cách.
Một lần nữa, tôi xin nhắc rằng các Chân sư Minh triết không phân biệt người Do Thái hay phi Do Thái, chỉ có các linh hồn và các người con của Thượng Đế.
And what of the Gentile attitude? It is absolutely necessary that the nations meet the Jew more than half way when he arrives at altering—slowly and gradually—his nationalistic orthodoxy. It is essential that they cease from fear and persecution, from hatred and from placing barriers to cooperation. The growing anti-Semitic feeling in the world is inexcusable in the sight of God and man. I refer not here to the abominable cruelties of the obsessed German people. Behind that lies a history of Atlantean relationships into which it is needless for me to enter because I could not prove to you the truth of my statements. I refer to the history of the past two thousand years and to the everyday behavior of Gentile people everywhere. There must be a definite effort upon the part of the nationals of [269] every country to assimilate the Jews, to intermarry with them, and to refuse to recognize as barriers old habits of thought and ancient bad relations. Men everywhere must regard it as a blot upon their national integrity if there is the appearance within their borders of the old duality—Jew and Gentile. There is neither Jew nor Gentile; there is only Humanity. This war (1914-1945) should be regarded as having brought to a conclusion the ancient enmity between Jew and Gentile, and the two groups have now the opportunity to originate a newer and happier measure of living and a truly cooperative relation on either side. The process of assimilation will be slow, for the situation is of so ancient a date that habits of thought, customary attitudes and separate customs are well established and hard to overcome. But the needed changes can be made if goodwill directs the spoken word, the written presentation and the mode of living together. The Hierarchy sees no distinction. The Head of the Hierarchy, though not in a Jewish body at this time, achieved the highest spiritual goal for humanity whilst in a Jewish vehicle. The Hierarchy is also sending into Jewish bodies certain disciples who will work with full intent at the changing of the situation. There are Jews today, a few in number, who do not think in terms of being Jews; who are not preoccupied with the Jewish problem to the exclusion of all else, and who are endeavoring to fuse all people into one humanity, thus bridging the gap.
Again, I say, that the Masters of the Wisdom see neither Jew nor Gentile, but only souls and sons of God.
Chia sẻ: