Chia sẻ:
Đây là hai chương cuối cùng của quyển sách Điểm đạo trong Nhân Loại và Thái dương hệ. Chương 18 nói về bảy con đường tiến hoá mở ra trước một điểm đạo đồ bậc thứ năm, và Ngài phải chọn một trong bảy con đường đó. Tuy nhiên, trong quyển sách về sau (The Rays and Initiations), Chân sư DK cho chúng ta biết một thay đổi của Thánh Đoàn liên quan đến bảy con đường tiến hoá siêu nhân loại. Khi một Chân sư được điểm đạo lần thứ sáu Ngài mới quyết định chọn một trong Bảy Con Đường này, thay vì lúc điểm đạo lần thứ năm như trước đây. Lúc Ngài viết quyển Initiations: Human and Solar, Thánh Đoàn chỉ cho phổ biến vắn tắt về Bảy Con Đường này, nhưng sau đó Ngài được phép giảng giải rộng hơn trong những quyển sách về sau.
Chương 19 nói về 14 qui luật để được điểm đạo lần thứ nhất. Các qui luật này được dịch từ kinh sách cổ của Thánh Đoàn, rất vắn tắt, nhưng súc tích và trừu tượng. Ngài có diễn giải sơ lược sau mỗi qui luật để chúng ta có thể hiểu phần nào các qui luật đó. Trong quyển sách The Rays and the Initiations, Ngài có đưa thêm 14 qui luật điểm đạo cho các điểm đạo đồ cao cấp, và diễn giải chi tiết hơn. Học hỏi các qui luật này là điều cần thiết của những ai muốn bước vào con đường Điểm đạo. Giáo sư Michael D. Robbins đã bình giảng tất cả 28 qui luật này trên website của Ông, số trang bình giảng có thể lên đến một quyển sách dày, và những người học đạo nhờ đó có thể hiểu sâu hơn các qui luật điểm đạo.
Phần cuối cùng của quyển sách là phần Vấn đáp Nội Môn được Chân sư dịch từ kinh sách xưa. Chúng ta cũng nên tập đọc và hiểu những đoạn văn như thế, vì nó giúp chúng ta mở mang trực giác và trí trừu tượng của mình. Trong phần này, có một câu rất đẹp có thể dùng như một mantram khi tham thiền, và chúng ta nên học thuộc nó để sử dụng:
I play my part with stern resolve, with earnest aspiration; I look above, I help below; I dream not, nor I rest; I toil; I serve; I reap; I pray; I am the Cross; I am the Way; I tread upon the work I do; I mount upon my slain self; I kill desire, and I strive, forgetting all reward. I forego peace; I forfeit rest, and in the stress of pain I lose myself and find Myself and enter into peace.
Tôi thực hiện phần việc của mình với lòng kiên quyết và nguyện vọng thiết tha; tôi nhìn lên trên, tôi giúp kẻ dưới; tôi không mơ tưởng cũng không ngơi nghỉ; tôi tận lực làm việc; tôi phụng sự; tôi thu hoạch; tôi cầu nguyện; tôi là Thập tự giá; tôi là Đường Đạo; tôi dấn bước trên công trình tôi thực hiện; tôi vượt lên trên phàm ngã đã chết của tôi; tôi diệt trừ dục vọng, tôi nỗ lực, quên hết mọi phần thưởng. Tôi từ bỏ bình an; tôi giả từ sự ngơi nghỉ, và trong đau thương thống khổ tôi đánh mất phàm ngã và tìm thấy Chân ngã của chính mình; tôi nhập vào sự bình an.
Đến đây là kết thúc quyển sách đầu tiên của Chân sư DK. Chúc tất cả các bạn tìm được niềm cảm hứng tâm linh để tiến bước trên đường đạo.
**********************
CHƯƠNG XVIII
BẢY CON ĐƯỜNG- THE SEVEN PATHS
Như chúng ta đã thấy, trong kinh sách ít có đề cập đến bảy Con Đường mở ra trước người đã được điểm đạo lần thứ năm. Hiển nhiên là không thể, và cũng không cần đưa vào trí tuệ chúng ta bất cứ ấn tượng nào về tầm quan trọng của các con đường này, hay các thuộc tính cần có để dấn bước lên đó. Theo thời gian, và khi nhân loại đạt được trình độ phát triển cao hơn, chúng ta sẽ có thể hiểu biết nhiều hơn, nhưng theo luật tiết kiệm thì các Huấn sư của nhân loại không ích gì phải cố gắng dạy chúng ta về các đặc tính cần có để bước lên bảy Con Đường này, trước khi chúng ta còn phải thấu đáo hay phát triển những điều cần thiết để vượt qua Con Đường Dự Bị, chứ đừng nói là Con Đường Điểm Đạo.
As might be expected, very little has appeared in our literature as to the seven Paths which stretch before the man who has reached the fifth initiation. It is obviously impossible, and also unnecessary, to convey to our mind any impression as to the significance of these paths, or as to the attributes needed for their treading. As time progresses and the race reaches a higher point of development, we shall be able to comprehend more, but under the law of economy it would be fruitless effort for the teachers of the race to instruct us on the characteristics needed for the treading of the seven Paths, before we have as yet apprehended or developed those required for traversing the Probationary Path, not to mention the Path of Initiation.
Sự kiện tổng quát duy nhất chúng ta đã biết, là trước khi có thể bước lên những Con Đường này, hành giả phải là một Chân sư Minh triết, phải là một Huynh trưởng Từ ái, và phải có khả năng vận dụng định luật, qua thông tuệ và bác ái. Phần việc của chúng ta hiện nay là tự chuẩn bị đủ điều kiện để bước vào Con Đường Điểm Đạo, bằng giới luật của Con Đường Dự Bị, bằng cách thận trọng điều hành cuộc sống, tuân hành định luật theo mức mình hiểu biết, và phụng sự nhân loại. Khi đã được giải thoát, bấy giờ bảy Con Đường này sẽ mở ra trước mắt, và chúng ta sẽ thấy rõ mình nên bước lên Con đường nào. Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh.
Có thể kể ra bảy Con Đường này như sau, và có thể đưa ra một số suy diễn, căn cứ trên luật tương ứng, luôn luôn chúng ta cần phải nhớ rằng ngôn từ chỉ dùng để che giấu hơn là minh giải, và chỉ có thể đưa ra những chi tiết vắn tắt nhất.
One general fact we do know, and that is, that before these Paths can be trodden, a man must be a Master of the Wisdom, he must be a Brother of Compassion, and he must be able, through intelligence and love, to wield the law. Our part at this time is to fit ourselves for the treading of the Path of Initiation, by the discipline of the Probationary Path, by the careful direction of the life, by obedience to the law as understood, and by service to the race. When we have attained liberation, then these Paths will stretch before us, and the one that we should tread will become apparent to us. All in this system works under the great law of attraction, and therefore, according to our vibration, [186] according to our color and tone, will depend, in all probability, our choice. The greater free will of the cosmic system is under limitation, just as is the free will of the system of which we are a part, and the free will of man himself. Upon innate quality will depend the direction of our further progress.
These seven Paths might be enumerated as follows, and certain deductions, based on the law of correspondence, might be given out, provided always that we remember that words serve more to blind than to elucidate, and that the briefest details only are possible.
1. Con Đường Phụng Sự trên Địa Cầu. The Path of Earth Service
Đây là Con Đường khiến hành giả liên kết với ĐĐCG, các Ngài thệ nguyện phụng sự và trợ giúp cuộc tiến hóa của hành tinh chúng ta. Đoàn gồm những vị làm việc dưới quyền Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, với các Chân sư Minh triết được phân thành bảy nhóm. Không có nhiều Chân sư đi theo Con Đường này như các vị trên những Con Đường khác, và chỉ đủ số vị được phép chọn Con Đường này để xúc tiến thỏa đáng cuộc tiến hóa hành tinh. Chúng ta biết nhiều về Con Đường này hơn các Con Đường khác, và sẽ biết được nhiều hơn khi các thành viên của nhân loại hội đủ điều kiện tiếp xúc với Đại Đoàn Huynh Trưởng. Phạm vi các Ngài thu dụng nhân viên, phương pháp các Ngài làm việc, cuối cùng sẽ trở thành kiến thức ngoại môn, và khi bảy nhóm này được công nhận và biết đến, thì trình tự hợp lý sẽ là các trường phái phát triển để điền khuyết các chức vụ trong những nhóm này.
This is the Path that keeps a man linked to the Hierarchy that is pledged to the service of our planet, and to the help of its evolutions. It comprises those who work under the Lord of the World in the seven groups into which our Masters of the Wisdom are divided. Not so many Masters follow this Path as some of the others, and only enough are permitted to do so to carry on planetary evolution satisfactorily. More is known about this path than about the others, and more will be found out as members of our humanity fit themselves to contact the Brotherhood. Their field of employ, their methods of work, will eventually become exoteric knowledge, and as the seven groups are recognized and known, schools of development for the filling of posts in these groups will be the logical sequence.
2. Con Đường Công Tác Từ Lực. The Path of Magnetic Work
Những vị nào làm công việc vận dụng các mãnh lực, hay lực điện từ để các Đấng Cao Cả sử dụng trên các cảnh giới, thì đi theo Con Đường này. Họ điều động năng lượng tạo hình tinh hoa chất; vận dụng vật chất thuộc mọi tỉ trọng và mức độ rung động. [187] Họ vận dụng các đợt sóng tư tưởng lớn, các trào lưu công luận trên các cấp cảm dục, cũng như trên các cấp cao hơn, nơi các Đấng Cao Cả hoạt động. Một số đông những người thuộc cung năm, những người có cung Chân thần là Cung Kiến thức Cụ thể, đi theo đường lối cố gắng này. Phẩm tính cố hữu của loại Chân thần thường quyết định đường lối hoạt động, và nghiệp quả của cung năm là một trong những yếu tố tạo nên điều này. Các Chân thần này làm việc với Fohat, và phải làm việc cho đến cuối đại giai kỳ biểu hiện. Bấy giờ họ sẽ ở trên cõi trí vũ trụ, nhưng cho đến nay khả năng suy tư trừu tượng phát triển còn quá ít nên chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa lời phát biểu này.
Those who do the work of wielding forces, or electrical magnetism for the use of the Great Ones on all the planes, pass to this Path. They wield the elemental formative energy, manipulating matter of every density and vibration. [187] Great waves of ideas and surging currents of public opinion on astral levels, as well as on the higher levels where the Great Ones work, are manipulated by them. A large number of fifth ray people, those who have the Ray of Concrete Knowledge for their monadic ray, pass to this line of endeavor. The inherent quality in the type of the monad settles usually the line of activity. The karma of the fifth ray is one of the factors which produces this. These monads work with Fohat, and must, to the end of the greater manvantara. They have their eventual position on the cosmic mental plane, but as yet the capacity for abstract thought is so little developed that it is impossible for us to comprehend the significance of this expression.
3. Con Đường Đào Tạo các Hành Tinh Thượng Đế. The Path of Training for Planetary Logoi
Đây là Con Đường dành cho các vị sẽ nhận công tác của bảy vị Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống tới, và những Phụ tá của các Ngài là bốn mươi chín vị Phó Hành Tinh Thượng Đế, cũng như các Đấng khác làm việc trong ngành đặc biệt này. Sẽ có bảy hệ thống, dù chúng ta chỉ liên quan đến ba hệ thống chính yếu, trong đó thái dương hệ của chúng ta hiện nay là hệ chính yếu thứ nhì. Mỗi vị Đế quân của một cung nhận một số điểm đạo đồ sáu lần điểm đạo và huấn luyện các vị đó đặc biệt cho công tác này; năng khiếu đặc biệt về màu sắc và âm thanh đưa đến sự chọn lựa này, và khả năng làm việc với “tâm hồn” hay các linh hồn đang tiến hóa là đặc điểm của ứng viên vào chức vụ cao cả này. Có thể nói các Hành Tinh Thượng Đế là các nhà tâm lý học thiêng liêng, nên trong việc đào tạo cho chức vụ này thì tâm lý học là môn căn bản, dù rằng đó là một môn tâm lý học mà cho đến nay chúng ta chưa thể quan niệm được. Trong hành tinh đặc biệt của chính Ngài, mỗi vị Hành Tinh Thượng Đế đều có những trường để phát triển các vị phụ tá Thượng Đế, ở đó huấn luyện các Vị cho chức vụ cao cả này, cho các Vị có cơ hội đạt kinh nghiệm [188] rộng lớn. Ngay cả các vị Thượng Đế cũng tiếp tục tiến tới, và địa vị của các Ngài cần được thay thế.
This Path is trodden by those who will take up the work of the seven Planetary Logoi of the next system, and of the forty-nine sub-planetary Logoi, their assistants, and of certain other Entities working in that particular department. There will be seven systems, though we are only concerned with the three major systems, of which our present system is the second major system. Each Chohan of a ray takes a certain number of initiates of the sixth initiation and trains them specially for this work; special aptitude in color and sound predisposes the choice, and the ability to work with “psyche,” or the spirits in evolution marks a man out for this high post. We might say that the Planetary Logoi are the divine psychologists, and therefore in the training for this post psychology is the basic subject, though it is a psychology inconceivable as yet to us. Every Planetary Logos has, in his own special planet, schools for the development of subordinate Logoi, and there trains them for this high office, giving them opportunity for wide experience. Even [188] the Logoi themselves progress onward, and their places must be taken.
4. Con Đường đến Sirius. The Path to Sirius
Rất ít điều gì có thể truyền đạt về Con Đường này, và chỉ có thể nêu lên mối quan hệ mật thiết lạ lùng giữa con đường này và Pleiades (Chòm sao Thất tinh), chứ không thể suy đoán thêm. Đa số những người trong nhân loại đã giải thoát đều đi theo đường này, và triển vọng mang lại những khả năng vinh diệu. Bảy ngôi sao của Pleiades là mục tiêu cho bảy mẫu người, và điều này được ngụ ý bằng câu nói trong Cổ Thư của Job, “Người có thể nào giữ được ảnh hưởng dịu dàng của chòm sao Thất tinh?” Trong bí nhiệm của ảnh hưởng này và trong bí mật của mặt trời Sirius, có ẩn các sự kiện thực về cuộc tiến hóa của vũ trụ chúng ta, và do đó, của thái dương hệ chúng ta.
Very little may be communicated about this Path, and the curiously close relation between it and the Pleiades can only be mentioned, further speculation being impossible. The bulk of liberated humanity goes this way, and the prospect holds out glorious possibilities. The seven stars of the Pleiades are the goal for the seven types, and this is hinted at in the Book of job, in the words, “Canst thou bind the sweet influence of the Pleiades?” In the mystery of this influence, and in the secret of the sun Sirius, are hidden the facts of our cosmic evolution, and incidentally, therefore, of our solar system.
5. Con Đường của Các Cung. The Ray Path
Thật khó biết tên nào khác để gọi Con Đường này, vì chúng ta biết về nó quá ít. Đi theo đường này, hành giả tiếp tục ở trên cung của mình, và làm việc theo đó trong các giới khác nhau, trên tất cả các cõi, thi hành các mệnh lệnh của Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, và làm việc theo sự điều hành của Ngài. Nó đưa hành giả đến khắp nơi trong thái dương hệ, nhưng vẫn dứt khoát liên kết y với cung tổng hợp. Đây là một con đường rất khó khăn, phức tạp, vì nó cần một năng lực toán học tinh vi, cao cấp, và khả năng làm việc bằng phương pháp hình học, theo cách mà bộ óc thuộc ba bề đo của chúng ta không thể thấu hiểu. Vị nào chọn con đường này thì thấy luật rung động có tầm quan trọng sâu xa. Trước hết, Ngài làm việc trong phòng hội đồng của Đức Chúa Tể Hoàn Cầu ở Shamballa, vận dụng luật rung động trên cung của chính Ngài. Về sau, Ngài sẽ ở trên một hành tinh tương ứng với [189] cung của chính Ngài, và không ở địa cầu, trừ khi Ngài có cùng cung với vị Hành Tinh Thượng Đế cai quản địa cầu. Về sau, khi tiến bộ hơn, Ngài lại chuyển đến mặt trời; bấy giờ, khi đã thấu đáo được tất cả những gì liên quan đến sự rung động trong thái dương hệ này, Ngài sẽ chuyển đến một hệ vũ trụ, rời cung của chính Ngài (vốn là một cung phụ của một cung vũ trụ), để tiếp tục chuyển đến cung vũ trụ tương ứng.
Giống như cuộc tiến hóa của con người trong thái dương hệ này có năm giai đoạn, trên đây chúng ta cũng đã kể năm Con Đường chính mà một vị Chân sư phải chọn. Chúng ta chỉ có thể đề cập đến hai con đường còn lại một cách vắn tắt hơn nữa, vì chỉ rất ít những người thật tiến hóa mới bước vào đó, do phải cần mức thành đạt cao khi nhập vào, và vị nào đi vào những con đường đó đều hoàn toàn ra khỏi thái dương hệ. Chúng không đưa đến Sirius như một số con đường khác.
Xin nhớ là bốn nhóm còn lại trong thái dương hệ, cuối cùng sau những kỳ gian lâu dài, xa xăm, sẽ chuyển đến các cảnh giới vũ trụ. Một nhóm chuyển trực tiếp đến Sirius, và hai nhóm còn lại, sau khi được điểm đạo, chuyển trực tiếp đến cảnh giới vũ trụ, không có thời kỳ công tác trung gian trên địa cầu, trong thái dương hệ, hay trên Sirius. Hai Con Đường này là:-
It is difficult to know by what other name to call this Path, as so little is known about it. In treading it, a man stays on his own ray, and works thereon in the various kingdoms on all the planes, carrying out the behests of the Lord of the World, and working under his direction. It carries a man to every part of the solar system, yet links him definitely with the synthetic ray. It is a very complex path, for it necessitates a capacity for the most intricate mathematics, and an ability to geometric in a manner incomprehensible to our three-dimensional brains. This path is taken by the man to whom the law of vibration is of profound importance. He works first in the council chamber of the Lord of the World at Shamballa, manipulating the law of vibration on his own ray. Later he will have his habitat on the planet corresponding to his own ray, and [189] not on the earth unless he is on the ray of the Planetary Logos holding sway upon the earth. Later again as his evolution progresses, he will pass to the sun; then having mastered all connected with vibration in this system he will pass to the cosmic system, going off his own ray (which is but a subsidiary ray of one cosmic ray), on to the corresponding cosmic ray.
Just as the evolution of man in this system is fivefold, so in the above we have enumerated the principal five Paths from which a Master has to choose. The remaining two can only be touched upon still more briefly, for they hold but a very few of the evolving sons of men, owing to the high point of attainment necessitated for their entrance, and the fact that those who enter upon them pass out of the system altogether. They do not lead to Sirius, as do some of the other Paths. It will be noted that four groups remain in the system, passing eventually, in dim and distant aeons, to the cosmic planes. One group passes directly to Sirius, and the remaining two groups pass directly after initiation to the cosmic planes, with no period of intermediate work on earth, in the system, or on Sirius. These two Paths are:
6. Con Đường chính Đức Thái Dương Thượng Đế đang đi. The Path the Logos Himself Is On
Tất cả các môn sinh huyền bí đã nghiên cứu cẩn thận các tiến trình của thế giới sẽ thấy rõ trong ánh sáng của luật tương ứng, rằng Đức Thái Dương Thượng Đế trên các cảnh giới vũ trụ đang phát triển nội nhãn thông vũ trụ, giống như con người ở cấp độ thấp hơn đang nhằm phát triển nhãn quan tương tự trong thái dương hệ. Có thể gọi điều này là sự phát triển con mắt thứ ba cấp vũ trụ. Trong cấu trúc của con mắt ở cõi trần có ẩn sự bí mật này, và khi nghiên cứu nó, chúng ta có thể được khải thị phần nào bí nhiệm. [190] Một bộ phận nhất định của mắt là trung tâm của thị giác, và chính là dụng cụ để nhìn; phần còn lại của mắt giữ vai trò lớp vỏ bảo vệ, cả hai phần đều cần thiết, và không phần nào có thể tồn tại mà thiếu phần kia. Trong trường hợp vĩ đại hơn cũng vậy, nhưng sự tương đồng trên các cấp cao siêu đến đỗi nếu dùng ngôn từ diễn tả thì chỉ làm lu mờ chân lý. Một số người con của nhân loại, một nhóm trung tâm đã đạt một cấp điểm đạo rất cao trong thái dương hệ trước, đã hình thành một nhóm nội môn chung quanh Đức Thái Dương Thượng Đế khi Ngài quyết định tiến bước xa hơn. Kết quả là Ngài tạo thành thái dương hệ này, vì ý muốn lâm phàm cấp vũ trụ thúc đẩy Ngài đi tới. Nhóm nội môn này ở lại với Đức Thượng Đế trên cõi nguyên tử, hay cõi thứ nhất của thái dương hệ, trên phương diện chủ quan nội tại, và trong một ý nghĩa huyền bí, nhóm này tương ứng với đồng tử của mắt. Quê hương thật của các Đấng Cao Cả này ở trên cõi bồ-đề vũ trụ.
Dần dần, nhờ nỗ lực lớn lao, một số Chân sư đã hội đủ điều kiện, hoặc đang tự chuẩn bị cho đủ điều kiện để nhận địa vị các thành viên nguyên thủy của nhóm này, cho phép các Ngài trở về một trung tâm vũ trụ mà thái dương hệ chúng ta và hệ vĩ đại hơn là Sirius đang quay chung quanh. Thỉnh thoảng mới có một vị Chân sư hội đủ các điều kiện cần thiết, vì điều này bao gồm sự phát triển một lối ứng đáp nhất định với các rung động vũ trụ, tức là chuyên về nội nhãn thông và phát triển nhãn thông vũ trụ đến mức nào đó. Nhiều vị trong trường tiến hóa thiên thần đi vào con đường này hơn là nhân loại. Nhân loại đi theo con đường này qua trường tiến hóa thiên thần, mà có thể nhập vào nhờ chuyển đến Con Đường thứ năm, Con Đường của các cung. Hai trường tiến hóa trên có thể hợp nhất trên Con Đường thứ năm, và từ Con Đường thứ năm có thể nhập vào Con Đường thứ sáu.
It will have become apparent to all occult students who have studied with care the world processes in the light of the law of correspondences, that the Logos on the cosmic planes is evolving inner cosmic vision, just as man in his lesser degree is aiming at the same vision in the system. This might be called the development of the cosmic third eye. In the physical plane structure of the eye lies hid the secret and in its study may come some revelation of the mystery. [190]
A certain part of the eye is the nucleus of sight, and the apparatus of vision itself; the remainder of the eye acts as a protecting shell, and both parts are required, and neither can exist without the other. So in this greater case, only the analogy exists on such high levels that words only blur and dim the truth. Certain of the sons of men, a nucleus who reached a very high initiation in the previous solar system, formed an esoteric group around the Logos when he decided upon further progress. In consequence he formed this system, cosmic desire for incarnation driving him on. This esoteric group remains with the Logos on the atomic, or first plane of the system, on the subjective inner side, and it corresponds, in an occult sense, to the pupil of the eye. The real home of these great Entities is upon the cosmic buddhic plane.
Gradually, by dint of hard effort, certain Masters have qualified themselves, or are qualifying themselves, to take the place of the original members of the group, permitting of their return to a cosmic center around which our system, and the greater system of Sirius revolve. Only one adept here and there has the necessary qualifications, for it involves the development of a certain type of response to cosmic vibration. It means a specializing in the inner sight, and the development of a certain measure of cosmic vision. More of the deva evolution pass to this path than do the human. Human beings pass to it via the deva evolution, which can be entered by transference to the fifth Path, the ray Path. On this latter Path, the two evolutions can merge, and from the fifth Path the sixth can be entered.
7. Con Đường Địa Vị Chúa Con Tuyệt Đối. The Path of Absolute Sonship
Địa vị Chúa Con này là tương ứng trên cảnh giới Cao nhất với cấp bậc trên Đường Đệ Tử mà chúng ta gọi là “Con của Chân [191] sư.” Đó là địa vị Chúa Con của một Đấng cao siêu hơn Đức Thái Dương Thượng Đế chúng ta, mà chúng ta không được phép đề cập đến. Đây là con đường vĩ đại điều hành nghiệp quả. Các vị Nghiệp Quả Tinh Quân ở trên Con Đường này, tất cả những vị nào thích hợp với đường lối làm việc này, và thân cận với Đức Thái Dương Thượng Đế theo nghĩa mật thiết cá nhân, đều chuyển vào Con Đường Địa Vị Chúa Con Tuyệt Đối. Đây là Con Đường của những vị thân thiết đặc biệt với Đức Thượng Đế, và Ngài trao vào tay Họ việc thanh toán nghiệp quả trong thái dương hệ. Họ biết các mong muốn, ý chí và mục đích của Ngài và được giao cho thi hành các mệnh lệnh của Ngài. Nhóm này cộng sự với Đức Hành Tinh Thượng Đế, tạo thành một nhóm đặc biệt, được liên kết với một vị Thượng Đế còn cao siêu hơn nữa.
This Sonship is a correspondence on the highest plane to that grade of discipleship which we call “Son of the Master.” [191] It is the Sonship to a Being higher than our Logos, of whom we may not speak. It is the great controlling Path of Karma. The Lipika Lords are on this Path, and all who are fitted for that line of work, and who are close to the Logos in a personal intimate sense, pass to the Path of absolute Sonship. It is the Path of the special intimates of the Logos, and into their hands he has put the working out of karma in the solar system. They know his wishes, his will and his aim, and to them he entrusts the carrying out of his behests. This group, associated with the Logos, forms a special group linked to a still higher Logos. [192]
[192]
CHƯƠNG XIX
CÁC QUI LUẬT DÀNH CHO ỨNG VIÊN ĐIỂM ĐẠO
Có một số câu châm ngôn và huấn thị mà ứng viên điểm đạo cần nghiên cứu và tuân hành. Giữa các thuật ngữ “người chí nguyện tìm đạo” và “ứng viên điểm đạo” có sự khác biệt rất lớn. Người có chí nguyện và phấn đấu hướng về con đường đệ tử không hề bị ràng buộc có cùng một thái độ hay giới luật đặc biệt như trường hợp ứng viên điểm đạo, và nếu muốn, y có thể đi Con Đường Dự Bị bao lâu cũng được. Người muốn được điểm đạo thì ở trong một vị thế khác hẳn, và một khi đã dấn thân, y phải đặt cuộc đời mình theo một qui luật nhất định, với một chế độ nghiêm nhặt, mà đối với người đệ tử chỉ là nhiệm ý.
Mười bốn qui luật được đưa ra ở đây, trích từ một loạt các giáo huấn, sưu tập cho những người cố gắng để được điểm đạo lần thứ nhất.
There are certain aphorisms and injunctions which the applicant for initiation needs to study and obey. There is a great distinction between the terms “aspirant to the Path” and “applicant for initiation.” He who aspires and strives towards discipleship is in no way pledged to the same specific attitude and discipline as is the applicant for initiation, and he can, if he so choose, take as long as he desires in the treading of the Probationary Path. The man who seeks initiation is in a different position, and having once made application has to bring his life under a definite rule, and a strict regime which is only optional to the disciple.
The rules given here are fourteen in number, and are gathered from a series of instructions compiled for those who seek to take the first initiation.
CÁC QUI LUẬT DÀNH CHO ỨNG VIÊN
Qui luật 1.
Người đệ tử hãy tìm trong chốn sâu thẳm của tâm hồn mình. Nếu ở đó có ngọn lửa cháy sáng, sưởi ấm cho huynh đệ y chứ không sưởi ấm cho chính y, thì đã đến lúc y xin được đứng trước Cửa Đạo.
Khi tình thương dành cho cả chúng sinh, không phân biệt, bắt đầu là một sự kiện thực trong tâm hồn người đệ tử, và y [193] không dành tình thương cho chính mình, thì đó là dấu hiệu cho thấy y đang đến gần Cửa Điểm Đạo, và có thể đưa ra những lời cam kết sơ bộ cần thiết. Cần có những điều này, trước khi Chân sư y đưa tên y vào danh sách các thí sinh điểm đạo. Nếu y không bận tâm đến sự khổ đau của phàm ngã, nếu y vẫn điềm nhiên dù hạnh phúc có đến trên đường của y hay không, nếu mục đích duy nhất của đời y là phụng sự và cứu độ thế gian, và nếu y thấy nhu cầu của huynh đệ y là quan trọng hơn chính mình, thì bấy giờ ngọn lửa bác ái tỏa sáng cuộc sống y, và thế gian có thể sưởi ấm ở nơi y đến. Tình thương này phải là một sự biểu lộ thực tế, đã được trắc nghiệm, chứ không chỉ là lý thuyết, hay chỉ là lý tưởng thiếu thực tế và tình cảm vui thích. Đó là điều đã tăng trưởng qua các thử thách và trắc nghiệm của đời sống, vì thế sức thôi thúc nền tảng này của cuộc sống hướng đến sự xả kỷ và hy sinh phàm tính.
Rule 1
Let the disciple search within the heart’s deep cave. If there the fire burns bright, warming his brother yet heating not himself, the hour has come for making application to stand before the door.
When love for all beings, irrespective of who they may be, is beginning to be a realized fact in the heart of a disciple, and yet nevertheless love for himself exists not, then comes [193] the indication that he is nearing the Portal of Initiation, and may make the necessary preliminary pledges. These are necessitated before his Master hands in his name as a candidate for initiation. If he cares not for the suffering and pain of the lower self, if it is immaterial to him whether happiness comes his way or not, if the sole purpose of his life is to serve and save the world, and if his brother’s need is for him of greater moment than his own, then is the fire of love irradiating his being, and the world can warm itself at his feet. This love has to be a practical, tested manifestation, and not just a theory, nor simply an impractical ideal and a pleasing sentiment. It is something that has grown in the trials and tests of life, so that the primary impulse of the life is towards self-sacrifice and the immolation of the lower nature.
Qui luật 2.
Khi đã cầu xin dưới ba hình thức, bấy giờ người đệ tử hãy rút lại lời cầu xin, và quên đi việc làm đó.
Đây là một trong những trắc nghiệm sơ khởi. Thái độ trí tuệ của người đệ tử phải là không bận tâm đến việc y có được điểm đạo hay không. Động cơ vị kỷ không được xen vào. Những lời cầu xin chỉ đến được Chân sư, khi năng lượng được phát khởi bởi động lực vị tha thuần khiết và được Ngài chuyển đến thiên thần lưu trữ hồ sơ của ĐĐCG. Chỉ những người đệ tử nào tìm cách được điểm đạo vì muốn được cấp thêm quyền năng để giúp đỡ và ban phúc, mới thấy lời kêu cầu của họ được đáp ứng. Những ai không quan tâm đến điểm đạo thì không nhận được phần thưởng huyền bí này, và những kẻ do ích kỷ hay tò mò, nôn nóng muốn tham dự các bí nhiệm, thì không vào được cửa Đạo, và phải gõ cửa ở bên ngoài. Những người nào quyết tâm phụng sự, những người nào nặng lòng nghĩ đến nhu cầu của thế giới, do [194] thế khơi dậy trách nhiệm cá nhân, và đã hoàn thành bổn phận theo luật, họ gõ cửa và được đáp ứng, họ cầu xin và được công nhận. Đó là những người phát ra lời kêu cầu được thêm quyền năng để trợ giúp, nó sẽ thấu đến các Đấng đang chờ trong im lặng.
Rule 2
When application has been made in triple form, then let the disciple withdraw that application, and forget it has been made.
Herein lies one of the initial tests. The disciple’s attitude of mind must be that he cares not whether he takes initiation or not. Selfish motive must not enter in. Only those applications which reach the Master through the energy engendered through pure altruistic motive are transmitted by him to the recording angel of the Hierarchy; only those disciples who seek initiation because of the added power to help and bless that it confers, will find a response to their plea. Those careless of initiation receive not the occult accolade, and those anxious, through selfishness or curiosity, to participate in the mysteries, enter not the door but remain knocking outside. Those who are keen to serve, those who are weighed down with a sense of world need, and the personal [194] responsibility thereby awakened, and who have fulfilled the law, knock and meet with response, and make application which meets with recognition. They are the one who send forth a cry for added power to aid, which penetrates to the ear of those who silently wait.
Qui luật 3.
Lời kêu gọi phải tam phân, và phải phát ra trong thời gian lâu dài. Người đệ tử hãy thốt lên lời kêu gọi qua sa mạc, qua biển cả và qua những ngọn lửa chia cách y với cánh cửa bị che kín và ẩn giấu.
Qua các biểu tượng này, người đệ tử nhận được huấn thị hãy làm cho sa mạc của cuộc sống ở cõi trần bừng nở như hoa hồng, do đó từ khu vườn của đời sống hạ đẳng có thể trỗi lên những âm thanh, những mùi hương, và mức độ rung động đủ mạnh để vượt qua khoảng không gian ở giữa cõi trần và cửa Đạo; huấn thị hãy làm yên lặng những dòng nước xao động của cuộc sống xúc cảm, để mặt nước trong trẻo của nó có thể phản ánh cửa Đạo, và cuộc sống phàm nhân phản chiếu được sự sống tinh thần của thiên tính nội tại; huấn thị hãy đưa vào lò lửa thanh luyện các động cơ nội tâm, lời nói, và tư tưởng, vốn là nguồn gốc của hoạt động, để chúng có nguồn gốc từ cõi trí. Khi ba trạng thái biểu hiện này của Chân nhân, vị Thượng Đế nội tại, đã được chế ngự, điều hợp và sử dụng, thì bấy giờ dù rằng chính y chưa ý thức được, tiếng nói của người đệ tử sẽ được nghe thấy, với lời yêu cầu mở cửa Đạo. Khi cuộc sống phàm nhân ở cõi trần trở nên phong phú, sinh hoạt xúc cảm được ổn định và hoạt động trí tuệ được chuyển hóa, bấy giờ không điều gì có thể ngăn cản then gài cửa Đạo được cất lên cho người đệ tử đi qua. Chỉ nhờ rung động đồng bộ với rung động bên trong cửa Đạo mới khiến nó mở ra, và khi chủ âm của đời sống người đệ tử hòa hợp với sự sống [195] của ĐĐCG, thì bấy giờ các cánh cửa sẽ lần lượt mở ra, và không điều gì có thể giữ chúng còn đóng kín.
Rule 3
Triple the call must be, and long it takes to sound it forth. Let the disciple sound the cry across the desert over the sea, and through the fires which separate him from the veiled and hidden door.
Under this symbology comes to the disciple the injunction to make the desert of the physical plane life to blossom like the rose, so that from the garden of the lower life may arise those sounds and scents, and a vibration strong enough to cross the intervening space between it and the portal; to still the restless waters of the emotional life, so that in their limpid, still expanse, that portal may be reflected, and the lower life mirror forth the spiritual life of the indwelling divinity; to pass through the fiery furnace those motives words, and thoughts which are the mainspring of activity and have their origin upon the mental plane. When these three aspects of the manifesting Ego, the God within, are brought under control, co-ordinated, and utilized, then, even unconsciously to himself, will the voice of the disciple be heard, demanding the opening of the door. When the lower life upon the physical plane is fertilized, the emotional stabilized, and the mental transmuted, then naught can prevent the latch upon that door being lifted, and the disciple passing through. Only synchronous vibration to that which lies the other side of the door produces its opening, an when the key of the disciple’s life is attuning itself to that [195] of the hierarchical life, then, one by one, the door open, and nothing can keep them closed.
Qui luật 4.
Người đệ tử hãy trông nom cho ngọn lửa thiêng phát triển, hãy nuôi dưỡng các sinh linh hạ đẳng, để giữ cho bánh xe quay mãi.
Đây là huấn thị khiến người đệ tử nhớ trách nhiệm của mình đối với nhiều sinh linh hạ đẳng, tất cả hợp thành thể biểu hiện tam phân của y. Nhờ thế cuộc tiến hóa có thể thực hiện, và nhờ thếmà mỗi sinh linh trong các giới khác nhau của thiên nhiên, dù hữu thức hay không, đều hoàn thành chức năng của nó là làm sinh động đúng cách những gì mà đối với nó như hành tinh đối với mặt trời. Nhờ đó mà Thiên Cơ được triển khai một cách chính xác hơn. Thiên giới vốn ở nội tâm, và bổn phận của Chủ thể nội tâm gồm hai phần, một là đối với các sinh linh tạo thành thể xác, thể cảm dục và thể trí của y, và kế đó là đối với đại vũ trụ, thế giới mà trong đó tiểu vũ trụ chỉ là một phần vô cùng nhỏ.
Rule 4
Let the disciple tend the evolution of the fire; nourish the lesser lives, and thus keep the wheel revolving.
Here comes an injunction to the disciple to remember his responsibility to those many lesser lives which, in their sum total, compose his triple body of manifestation. Thus is evolution possible, and thus each life, in the different kingdoms of nature, consciously or unconsciously, fulfils its function of rightly energizing that which is to it as is the planet to the sun. Thus will the unfolding of the plan logoic proceed with greater accuracy. The kingdom of God is within, and the duty of that inner hidden Ruler is twofold, first, to the lives which form the bodies, physical, astral, and mental, and then to the macrocosm, the world of which the microcosm is but an infinitesimal part.
Qui luật 5.
Ứng viên hãy để cho nhật thần làm lu mờ ánh sáng của nguyệt thần, chỉ còn lại nguồn sáng duy nhất trên bầu trời tiểu vũ trụ.
Muốn hoàn thành huấn thị này, tất cả các ứng viên cần thực hiện hai điều, thứ nhất, nghiên cứu nguồn gốc của mình, nhận biết được tâm thái thật sự của chính mình hiểu theo huyền bí, và ý thức được một cách khoa học về thực tính của Chân nhân, hay Chân ngã, đang hoạt động trong thể nguyên nhân. Bấy giờ họ phải khẳng định thiên tính bẩm sinh của họ, ở cõi trần, qua trung gian của ba hạ thể, và ngày càng bày tỏ giá trị căn bản của mình. [196] Thứ hai, nghiên cứu sự cấu tạo của con người, thấu hiểu cách hoạt động trong phàm tính, nhận thức được mối tương quan và tùy thuộc lẫn nhau của mọi sinh vật, và do đó chế ngự được các sinh linh hạ đẳng hợp thành ba thể biểu lộ. Do đó, Nhật thần, Thực tại nội tâm, Con của Đấng Cha Lành, và là Chủ thể Tư tưởng trên cảnh giới của mình trở thành trung gian giữa những gì thuộc về trần thế và những gì có nguồn gốc bên trong mặt trời. Có hai câu trong Kinh Thánh hàm chứa phần nào ý tưởng này, và rất hữu ích nếu được các môn sinh Tây phương dùng để tham thiền:- “Các nước trên thế gian này trở thành nước của Chúa Trời và của Đức Christ Con Ngài.” “Lạy Chúa, Đấng Thượng Đế chúng con, các thần khác Ngài đã thống trị chúng con, nhưng chỉ bởi Ngài mà chúng con kêu cầu đến Thánh danh Ngài.” Câu sau đặc biệt thú vị, vì nó biểu thị sự chế ngự của cái có nguồn gốc cao siêu trên âm thanh và lực sáng tạo cấp thấp.
Rule 5
Let the applicant see to it that the solar angel dims the light of the lunar angels, remaining the sole luminary in the microcosmic sky.
To fulfil this injunction all applicants need to do two things, first, to study their origin, to realize their own true psychology occultly understood, and to become, scientifically aware of the real nature of the Ego, or the Higher Self, functioning in the causal body. Then they have to assert upon the physical plane, through the medium of the three lower bodies, their innate divinity, and to demonstrate in ever increasing degree their essential value. Secondly, to study the constitution of man, to understand the method [196] of functioning in the lower nature, to realize the interdependence and interrelation of all living things, and thus bring the lesser lives, which compose those three bodies of manifestation, under control. Thus the solar Lord, the inner Reality, the Son of the Father, and the Thinker on his own plane becomes the intermediary between that which is of the earth, earthy, and that which finds its home within the sun. Two verses in the Christian Bible hide something of this idea within themselves, and students in the occident may find it helpful to meditate upon them: — “The kingdoms of this world are become the kingdom of our Lord and of his Christ.” — “O Lord, our God, other lords beside thee have had dominion over us, but by thee only will we make mention of thy name.” The last verse is particularly interesting, as it demonstrates the suppression of the lower sound and creative force by that which is of higher origin.
Qui luật 6.
Những ngọn lửa thanh luyện cháy yếu ớt khi giới thứ ba bị hy sinh cho giới thứ tư. Thế nên, người đệ tử hãy thôi, không chiếm lấy mạng sống, và hãy nuôi dưỡng phần thấp nhất bằng sản phẩm của giới thứ hai.
Có thể tóm tắt qui luật này bằng giáo huấn thông thường rằng mỗi đệ tử phải là người ăn chay nghiêm nhặt. Phàm tính trở nên trì trệ, nặng nề, và ngọn lửa nội tâm không thể chói rạng khi có thịt trong thực phẩm. Đây là một nghiêm luật đối với các ứng viên và không được phép vi phạm. Người tìm đạo có thể chọn việc ăn thịt hay không tùy thích, nhưng đến một giai đoạn nhất định trên đường đạo thì điều thiết yếu là phải ngưng mọi lối ăn thịt, và phải hết sức nghiêm nhặt chú ý đến thực phẩm. Người đệ tử phải tự giới hạn trong việc sử dụng rau đậu, ngũ cốc, trái cây và hạt có dầu. Chỉ bằng cách này y mới có thể kiến tạo được một [197] loại thể xác có thể chịu đựng nổi sự giáng nhập của Chân nhân đã đứng trước Đấng Điểm Đạo trong các thể thanh của mình. Nếu y không thực hiện qui luật này, và nếu y có thể được điểm đạo mà không tự chuẩn bị trước như thế, thì chắc hẳn thể xác sẽ bị tan vỡ do năng lượng tuôn đổ qua các luân xa mới được kích thích, và có thể mang lại mối nguy hiểm lớn lao cho não bộ, xương sống hoặc tim.
Rule 6
The purificatory fires burn dim and low when the third is sacrificed to the fourth. Therefore let the disciple refrain from taking life, and let him nourish that which is lowest with the produce of the second.
This rule might be summed up in the trite instruction to each disciple that he be strictly vegetarian. The lower nature becomes clogged and heavy, and the inner blaze can not shine forth when meat is included in the diet. This is a drastic rule for applicants, and may not be violated. Aspirants can choose to eat meat or not as they prefer, but at a certain stage upon the path it is essential that all meat eating of every kind be stopped, and the strictest attention must be paid to diet. A disciple must confine himself to vegetables, grains, fruits and nuts. Only thus can he build the [197] type of physical body which can stand the entry of the real man who has stood in his subtler bodies before the Initiator. Should he not do this, and should it be possible for him to take initiation without having thus prepared himself, the physical body would be shattered by the energy pouring through the newly stimulated centers, and dire danger to the brain, the spine, or the heart would eventuate.
Dĩ nhiên ở đây chúng ta phải công nhận rằng không bao giờ có thể đưa ra những qui luật nào cứng nhắc hay cố định, ngoại trừ qui luật đầu tiên là đối với tất cả các ứng viên điểm đạo tuyệt đối cấm thịt, cá, và tất cả các thức uống có lên men cũng như thuốc lá. Những người nào có thể chịu được thì đôi khi tốt hơn nên loại bỏ trứng và phó-mát ra khỏi thực phẩm, nhưng điều này không hề bắt buộc. Luôn luôn có lời khuyên những người đang trong tiến trình phát triển mọi loại quan năng thần thông không nên ăn trứng và rất ít phó-mát. Sữa và bơ thì thuộc loại khác, và hầu hết các điểm đạo đồ và các ứng viên thấy cần phải duy trì chúng trong thực phẩm. Một số ít người phi thường có thể tiếp tục duy trì đầy đủ năng lượng thể chất bằng chế độ ăn uống nêu trong đoạn trước, nhưng đó là sự thể hiện có tính cách lý tưởng, và như chúng ta đều biết, điều lý tưởng ít khi đạt được trong thời kỳ chuyển tiếp hiện nay.
It must, of course, here be recognized that no hard or fast rules can ever be laid down, except the initial one that for all applicants for initiation meat, fish, and fermented liquors of all kinds, as well as the use of tobacco, are absolutely forbidden. For those who can stand it, eggs and cheese are sometimes better eliminated from the diet, but this is not in any way compulsory. It is advisable always that those who are in process of developing psychic faculties of any kind should not permit themselves to eat eggs and very little cheese. Milk and butter come under a different category, and most initiates and applicants find it necessary to retain them in the diet. A few exceptional people can subsist and retain their full physical energies on the diet mentioned in the preceding paragraph, but there the ideal is embodied, and, as we all know, the ideal is seldom attainable in the present transitional period.
Trong vấn đề này, có hai điều cần được chú trọng: Một là, tất cả các ứng viên đều phải có lương tri, trí phán đoán thông minh, thực tế; yếu tố này thường khi bị thiếu, và các môn sinh nên nhớ rằng những kẻ cuồng tín mất thăng bằng thì không phải là những thành viên tốt của ĐĐCG. Thăng bằng, ý thức tỉ lệ đúng đắn, xem xét thích đáng các điều kiện hoàn cảnh, và lương tri lành mạnh, là những dấu hiệu của huyền bí gia chân chính. Khi có thêm một ý thức hài hước thực sự, thì sẽ tránh được nhiều nguy hiểm. Hai là, nhận thức được yếu tố thời gian, và khả năng tiến hành chậm rãi khi thực hiện các thay đổi chế độ ăn uống và những thói quen trong một kiếp sống. Mọi sự trong thiên nhiên [198] đều tiến triển chậm rãi, và các ứng viên phải biết chân lý huyền bí của câu nói: – “Hãy hành động nhanh chóng một cách chậm rãi.” Một tiến trình loại bỏ dần dần thường là con đường minh triết, và thời kỳ loại trừ này—theo những điều kiện lý tưởng rất ít khi có được—nên bao gồm giai đoạn gọi là giai đoạn của người chí nguyện, nhờ đó khi hành giả trở thành ứng viên điểm đạo thì bấy giờ y đã thực hiện được sự thanh lọc chuẩn bị cần thiết về thực phẩm.
In this connection two things should be emphasized: First, the need that all applicants have for common sense; this factor is very often lacking, and students do well to remember that unbalanced fanatics are not desirable members of the Hierarchy. Equilibrium, a just sense of proportion, a due regard for environing conditions, and a sane common sense are the marks of the true occultist. When a real sense of humor exists likewise, many dangers will be avoided. Secondly, a recognition of time, and an ability to move slowly when effecting changes in the diet and in the habits of a lifetime. Everything in nature progresses [198] slowly, and applicants must learn the occult truth of the words: — “Make haste slowly.” A process of gradual elimination is usually the path of wisdom, and this eliminating period should — under ideal conditions which so seldom exist — cover the stage which we call that of the aspirant, so that when a man becomes an applicant for initiation he will have done the necessary preparatory purification of the diet.
Qui luật 7.
Người đệ tử hãy chú ý đến việc phát ra các âm thanh vang dội ở những nơi các Chân sư đang hoạt động. Y chớ nên phát ra những nốt hạ cấp khơi dậy sự rung động bên trong các phòng Ảo ảnh.
Người đệ tử nào tìm cách vào bên trong Cửa Điểm Đạo, không thể thực hiện điều đó cho đến khi y đã học được quyền năng của lời nói và quyền năng của sự im lặng. Điều này có một ý nghĩa sâu, rộng hơn là có lẽ chúng ta chỉ thấy ở bề ngoài, bởi vì nếu được diễn giải đúng đắn, nó cho chúng ta chìa khóa của cuộc biểu hiện, manh mối của các đại chu kỳ, và hiển lộ mục đích của thời kỳ ngơi nghỉ. Trước khi hành giả thấu hiểu được ý nghĩa của lời nói, và trước khi y sử dụng được sự im lặng của những chốn cao siêu để mang lại các kết quả mong muốn trên cõi này hay cõi khác, y không thể được nhận vào các lĩnh vực mà trong đó mỗi âm thanh và mỗi lời được thốt ra đều tạo nên những kết quả mạnh mẽ trong một loại vật chất nào đó, được làm sinh động bởi hai yếu tố chính, (a) ý chí mạnh mẽ, được áp dụng một cách khoa học, và (b) động cơ đúng đắn, được thanh luyện trong lửa.
Rule 7
Let the disciple turn his attention to the enunciating of those sounds which echo in the halls where walks the Master. Let him not sound the lesser notes which awaken vibration within the halls of Maya.
The disciple who seeks to enter within the Portals of Initiation cannot do so until he has learnt the power of speech and the power of silence. This has a deeper and a wider significance than perhaps is apparent, for it holds, if rightly interpreted, the key to manifestation, the clue to the great cycles, and the revelation of the purpose underlying pralaya. Until a man comprehends the significance of the spoken word, and until he utilizes the silence of the high places for the bringing about of desired effects on one plane or another, he cannot be admitted into those realms wherein every sound and every word spoken produces powerful results in matter of some kind, being energized by two predominant factors,
- powerful will, scientifically applied,
- right motive, purified in the fires.
Một vị Chân sư là một vị sáng tạo bằng vật chất cõi trí, phát khởi các động lực trên cõi trí, để tạo các kết quả trong cuộc biểu hiện cảm dục hay hồng trần. Những kết quả này rất mạnh mẽ và hữu hiệu, do đó vị sáng tạo phải có tư tưởng thanh khiết, lời nói [199] chính xác, và hành động khéo léo. Khi ứng viên nhận thức được các ý niệm này, thì hậu quả tức thời sẽ là những thay đổi quan trọng trong đời sống hằng ngày. Để sử dụng thực tế, chúng ta có thể kể ra những thay đổi này như sau:
An adept is a creator in mental matter, an originator of impulses on the mental plane, thereby producing results in astral or physical manifestation. These results are powerful and effective, and hence the necessity for their originator to be pure in thought, accurate in word, and skilful in [199] action. When these ideas are realized by applicants, the immediate consequence will be important changes in the life of every day. These changes might, for the sake of their practical use, be enumerated as follows:
- Các động lực nội tâm sẽ được xem xét kỹ và các xung lực phát khởi hành động sẽ được kiểm tra nghiêm nhặt. Vì thế, trong năm đầu tiên khi ứng viên dốc lòng chuẩn bị cho điểm đạo, mỗi ngày ba lần,y viết ra những khảo xét của mình về các động cơ nội tâm, hay là nguồn chính yếu của hành động.
- Y sẽ xem chừng lời nói, và cố gắng loại bỏ tất cả những lời bất hảo, uổng phí, và không cần thiết. Y sẽ nghiên cứu các hiệu quả của lời nói, truy nguyên các xung lực mà trong mọi trường hợp đều phát khởi hành động ở cõi trần.
- Ứng viên sẽ vun bồi sự im lặng, cẩn thận giữ gìn sự im lặng nghiêm nhặt về bản thân, công tác hoặc kiến thức huyền bí của họ, công việc của những người cộng sự, và công tác của nhóm huyền bí của họ. Chỉ trong phạm vi của nhóm hay trong quan hệ với thượng cấp, mới được phép có một mức độ tự do nào đó trong lời nói thật khôn ngoan. Cũng có thời gian cần nói. Đó là khi có thể phục vụ nhóm bằng những lời nói khôn ngoan, bằng cách thận trọng nêu lên những điều kiện, tốt hay xấu, và có những lời, tuy hiếm khi nhưng cần thiết, nói với một huynh đệ về đời sống nội tâm, hoặc với thượng cấp hay một nhóm viên chức, trong những trường hợp một huynh đệ có thể là do một sự sai lầm nào đó mà đang gây trở ngại, hoặc có thể trợ giúp nhóm nếu được đưa vào công tác khác.
- Y sẽ nghiên cứu hiệu quả của Thánh Ngữ và chuẩn bị các [200] điều kiện để sử dụng nó một cách không ngoan. Việc xướng, đọc Thánh Ngữ, và hiệu quả của nó đối với một luân xa nào đó (bất luận trường hợp nào cũng không phải là một trung tâm trong thể xác) sẽ được theo dõi, nhờ đó cuộc sống y sẽ được ảnh hưởng và điều chỉnh.
Ứng viên điểm đạo phải bắt đầu toàn bộ vấn đề nghiên cứu âm thanh và ngôn từ, linh từ hay những loại khác, là điều mà tất cả các nhóm huyền bí được lập nên phải nỗ lực nhiều hơn để thực hiện.
- Motives will be closely searched, and a strict check will be kept upon originating impulses. Hence during the first year in which the applicant devotes himself to the work of preparation for initiation he will, three times a day, keep a written account of the investigations he pursues, which concern his motives, or the mainspring of action.
- Speech will be watched, and an endeavor will be made to eliminate all unkind, unnecessary and wasteful words. The effects of the spoken word will be studied, and be traced back to those originating impulses which, in every case, initiate action upon the physical plane.
- Silence will be cultivated, and applicants will be careful to preserve strict silence concerning themselves, their occult work or knowledge, the affairs of those associated with them, and the work of their occult group. Only in group circles or in connection with their superiors will a wise latitude in speech be permitted. There is a time to speak. That time comes when the group can be served by wise words, a careful intimation of conditions, good or bad, and a rare, but necessary word to some brother concerning the inner life, or to some superior or group of officials, in cases where a brother may be hindering a group through error of some kind, or might help the group if put to different work.
- The effect of the Sacred Word will be studied, and conditions for its use wisely arranged. The sounding [200] of the Word, and its effect upon a particular esoteric center (not in any case whatsoever a physical center) will be watched, and the life thereby influenced and regulated.
The whole question of the study of sound and of words, sacred or otherwise, has to be taken up by applicants for initiation. This is something which must be faced more strenuously by all eventuating occult groups.
Qui luật 8.
Khi người đệ tử đến gần Cửa Điểm Đạo, Bảy cái chính yếu phải được thức động và mang lại sự đáp ứng từ bảy cái thứ yếu trên vòng kép.
Qui luật này thật rất khó khăn, và hàm chứa các yếu tố nguy hiểm cho người nào đảm nhận quá sớm việc dấn bước lên con đường cuối cùng. Có thể diễn giải nó đúng nghĩa như sau: Vị điểm đạo đồ tương lai phải phát triển phần nào sự rung động của bảy luân xa bên trong đầu, do đó làm gia tăng hoạt động rung động của bảy luân xa trong thể dĩ thái; qua rung động hỗ tương, cũng ảnh hưởng đến bảy trung tâm trong thể xác, chúng không khỏi bị kích thích khi các luân xa dĩ thái gần đến mức rung động tối đa. Không cần phải quảng diễn điểm này ngoài việc nêu ra rằng khi bảy luân xa bên trong đầu trở nên ứng đáp được với Chân nhân, thì bảy trung tâm sau đây,
Rule 8
When the disciple nears the portal, the Greater Seven must awaken and bring forth response from the lesser seven upon the double circle.
This rule is a very difficult one, and one which holds in it the elements of danger for the man who undertakes too early to tread the final path. Literally it can be interpreted thus: The would-be initiate must develop somewhat the vibration of the seven head centers, and thus sweep into increased vibratory activity the seven centers in the body upon the etheric plane; affecting also, through reciprocal vibration, the seven physical centers which are inevitably stimulated when the etheric centers approach their maximum vibration. It is not necessary to enlarge upon this point beyond pointing out that as the seven centers within the head become responsive to the Ego the following seven centers,
- Đầu, xem như một đơn vị,
- Tim,
- Cổ họng,
- Nhật tùng,
- Chót xương sống, [201] 6. Lá lách,
- Cơ quan sinh dục,
cũng chịu ảnh hưởng nhưng ảnh hưởng về mặt thanh lọc và chế ngự. Điều này sẽ tạo ra các kết quả trong các cơ quan dứt khoát thuộc về thể xác, qua đó con người hoạt động ở cõi trần. Ví dụ: – Bấy giờ người ta có thể hữu ý chuyển lửa và năng lượng sáng tạo từ các cơ quan sinh dục đến luân xa cổ họng, hoặc, qua sự hữu ý chế ngự luân xa tim, khiến thể xác ngưng hoạt động. Điều này không đạt được qua cái gọi là những cách thực hành Hatha Yoga, hoặc do tập trung chú ý vào các cơ quan của thể xác, mà nhờ phát triển sự chế ngự của Thượng Đế nội tâm, hoạt động qua luân xa đầu và do đó chi phối tất cả các luân xa khác.
The head, considered as a unit,
- The heart,
- The throat,
- The solar plexus,
- The base of the spine, [201]
- The spleen,
The organs of generation,
are also affected, but affected along the line of purification and control. This will produce results in the definitely physical organs through which man functions on the physical plane. In illustration: Man can then transfer consciously the creative fire and energy from the organs of generation to the throat, or, through the conscious control of the heart, produce suspended animation of the physical body. This is not achieved through what is called Hatha Yoga practices, or concentrating the attention upon the physical organs, but through the development of the control by the inner God, who works through the head center and thus dominates all else.
Vì thế, ứng viên sẽ hướng mọi năng lượng của mình về việc phát triển sự sống tinh thần, sự phát triển này sẽ là thành quả của suy tư đúng đắn, tham thiền, và phụng sự. Nhờ nghiên cứu sâu xa tất cả những điều cần biết liên quan đến năng lượng và các tụ điểm năng lượng, y sẽ điều hợp cuộc sống của mình để sự sống tinh thần có thể lưu chuyển qua đó. Hiện nay, sự nghiên cứu này chỉ có thể được thực hiện một cách an toàn trong công tác tập thể, dưới sự hướng dẫn của một vị Huấn sư; các môn sinh sẽ tự cam kết không cho phép thí nghiệm trên sự sống của chính họ, và không bất cẩn đùa với các loại lửa trong cơ thể. Họ chỉ việc chú tâm vào việc tìm hiểu lý thuyết và cuộc sống phụng sự.
The applicant, therefore, will bend all his energies towards the development of the spiritual life, which development will be the outcome of right thinking, meditation, and service. Through deep study of all there is to be known concerning energy and its focal points, he will co-ordinate his life so that the life of the spirit may flow through it. This study can only be safely undertaken at present in group work and under guidance from a teacher, the pupils will pledge themselves to permit no experimentation in their lives, and no careless trifling with the fires of the body. They will simply apply themselves to a theoretical comprehension and a life of service.
Bấy giờ, các luân xa sẽ phát triển một cách bình thường, trong khi ứng viên dồn hết chú tâm hoàn toàn thực sự yêu thương huynh đệ mình, hết lòng phụng sự, suy tư một cách thông minh, và luôn luôn xem xét bản thân kỹ lưỡng. Y sẽ ghi lại tất cả những điều gì trong cuộc sống nội tâm của mình có vẻ như liên quan đến sự phát triển của các luân xa. Sự ghi chép này có thể [202] được vị Huấn sư xem xét, bình luận, suy diễn, và phần kiến thức thu hoạch như thế sẽ được lưu trữ cho cả nhóm tham khảo. Theo cách này, có thể lưu trữ nhiều kiến thức để sử dụng.
Ứng viên nào lạm dụng kiến thức, mê theo những lối tập như là “luyện hơi thở để phát triển,” hoặc tập trung vào các luân xa, thì sẽ không khỏi thất bại trong cố gắng đi đến cửa điểm đạo, và sẽ trả giá nơi bản thân bằng triệu chứng điên cuồng, suy nhược thần kinh, và các bệnh tật khác nhau của thể xác.
The centers will then develop normally, whilst the applicant bends his attention to loving his brother perfectly in truth and in deed, to serving wholeheartedly, to thinking intelligently, and to keeping a close watch upon himself. He will also record all that seems to him in his inner life to be concerned with the evolution of the centers. This record can be surveyed by the teacher, comment made, deduction [202] sought, and the quota of information thus gained filed for group reference. In this way much knowledge can be stored up for use.
The applicant who misuses knowledge, who indulges in such practices as “breathing for development,” or concentrating upon the centers, will inevitably fail in his endeavor to reach the portal, and will pay the price in his body by the appearance of insanity, of neurasthenic conditions, and various physical ills.
Qui luật 9.
Người đệ tử hãy tự hòa nhập trong nhóm của y gồm những Chân ngã khác. Hãy để cho chỉ một màu sắc hòa hợp họ, và tính thống nhất của họ biểu lộ. Chỉ khi nào nhóm được biết và cảm nhận thì năng lượng mới có thể được phát ra một cách khôn ngoan.
Có một điều mà tất cả những người đệ tử và ứng viên điểm đạo phải làm là tìm ra nhóm phụng sự viên nào mà họ thuộc vào đó trong nội giới, nhận ra những người đó ở cõi trần, và kết hợp với họ trong công cuộc phụng sự nhân loại. Sự nhận biết này sẽ dựa trên:-
- Sự thống nhất mục đích.
- Sự rung động duy nhất.
- Cùng thuộc về một nhóm.
- Những mối liên hệ nghiệp quả lâu dài.
- Khả năng làm việc trong quan hệ hòa hợp.
Rule 9
Let the disciple merge himself within the circle of his other selves. Let but one color blend them and their unity appear. Only when the group is known and sensed can energy be wisely emanated.
One thing all disciples and applicants for initiation have to do is to find that particular group of servers to which they belong on the inner plane, to recognize them upon the physical plane, and to unite with them in service for the race. This recognition will be based upon:
Unity of aim.
- Oneness of vibration.
- Identity in group affiliation.
- Karmic links of long standing.
Xem qua, qui luật này có thể có vẻ là một trong những qui luật dễ dàng nhất, nhưng trong thực hành thì không phải vậy. Rất dễ vấp phải những sai lầm, và vấn đề làm việc hài hòa trong sự cộng tác tập thể không phải là điều quá đơn giản như ta có thể thấy ở bề ngoài. Sự rung động và mối quan hệ giữa các Chân nhân có thể hiện hữu, nhưng các phàm nhân bên ngoài có thể không hòa hợp. Vậy, công việc của ứng viên là tăng cường sự chế ngự của Chân nhân y đối với phàm nhân y, do đó quan hệ [203] của nhóm nội môn có thể thực hiện được ở cõi trần. Y sẽ làm điều này bằng cách áp dụng giới luật vào phàm nhân của chính y, chứ không phải bằng cách sửa đổi các huynh đệ y.
Ability to work in harmonious relation.
Superficially, this may appear one of the easiest of the rules, but in practice it is not so. Mistakes are easily made, and the problem of working harmoniously in group alignment is not so simple as it may appear. Egoic vibration and relationship may exist, yet the outer personalities may not harmonize. It is the work, then, of the applicant to strengthen the grip of his Ego upon his personality, so that [203] the esoteric group relation may become possible upon the physical plane. He will do this by the disciplining of his own personality, and not by the correction of his brothers.
Qui luật 10.
Đạo quân Âm thanh, hàng ngũ đông đảo các thiên thần, đang làm việc không ngừng. Người đệ tử hãy chú tâm xem xét các phương pháp của họ; y hãy học các qui luật mà Đạo quân này dùng làm việc bên trong các bức màu Ảo ảnh.
Qui luật này nói về công tác khảo cứu huyền bí, mà đến lúc nào đó mọi ứng viên điểm đạo đều phải theo đuổi. Dù rằng đối với người chưa được điểm đạo thì việc can thiệp vào cuộc tiến hóa song hành của các thiên thần là không an toàn, nhưng điều cần thiết và an toàn là khảo cứu phương cách các thần kiến tạo sử dụng, và các phương pháp họ làm theo, khi, từ mô hình nguyên thủy, qua các cấp dĩ thái, họ tạo nên điều mà chúng ta gọi là sự biểu hiện hồng trần; ứng viên phải hiểu biết các nhóm thiên thần này phần nào về mặt lý thuyết, và phải xem xét những âm thanh khiến họ hoạt động. Vì thế, điều này bao gồm việc nghiên cứu có hệ thống của các ứng viên, về:-
- Mục đích của âm thanh.
- Ý nghĩa của nội môn của các từ, của ngữ pháp, và cú pháp.
- Các định luật về rung động và điện, cũng như nhiều cuộc nghiên cứu phụ thuộc khác, liên quan đến sự biểu hiện của thiên tính và tâm thức qua trung gian của chất liệu thiên thần và hoạt động của các thiên thần điều khiển. Ứng viên sẽ khảo cứu các định luật của đại vũ trụ, và nhận thức được sự tương ứng giữa các hoạt động của tiểu vũ trụ, và cuộc biểu hiện linh hoạt của đại vũ trụ. [204]
Rule 10
The Army of the Voice, the devas in their serried ranks, work ceaselessly. Let the disciple apply himself to the consideration of their methods; let him learn the rules whereby that Army works within the veils of Maya.
This rule refers to the work of occult investigation, which must be pursued at some time or another by all who seek initiation. Though it is not safe for the uninitiated to tamper with the parallel evolution of the devas, yet it is necessary and safe to investigate the procedure pursued by the builders, the methods followed by them, in reproducing from the archetype, via the etheric that which we call physical manifestation; their groups must be somewhat theoretically cognized, and the sounds whereby they are swept into activity considered. This involves, therefore, the organized study, by all applicants, of:
- The purpose of sound.
- The esoteric meaning of words, of grammar, and of syntax.
- The laws of vibration and of electricity, and many other subsidiary studies which concern themselves with the manifestation of divinity and consciousness through the medium of deva substance and the activity of the controlling devas. The laws of the macrocosm will be investigated, and the correspondence between the activities of the microcosm, and the active manifestation of the macrocosm will be recognized. [204]
Qui luật 11.
Người đệ tử hãy chuyển lửa từ tam giác thấp lên tam giác cao, và bảo tồn những gì được tạo ra nhờ lửa của điểm trung gian.
Qui luật này thực sự có nghĩa là vị điểm đạo đồ phải chế ngự xung lực giới tính, như chúng ta thường hiểu, và chuyển lửa hiện đang bình thường làm sinh động các cơ quan sinh dục, lên luân xa cổ họng, để có thể dùng trí tuệ sáng tạo trên cõi trí. Bấy giờ, những gì được sáng tạo phải được nuôi dưỡng và bảo tồn bằng năng lượng bác ái của thiên nhiên, phát ra từ luân xa tim.
Tam giác thấp được đề cập đến là:-
- Nhật tùng.
- Chót xương sống.
- Các cơ quan sinh dục.
Trong khi tam giác cao được nêu ra là:-
- Đầu.
- Cổ họng.
- Tim.
Rule 11
Let the disciple transfer the fire from the lower triangle to the higher, and preserve that which is created through the fire of the midway point.
This means, literally, the control by the initiate of the sex impulse, as usually understood, and the transference of the fire which now normally vitalizes the generative organs to the throat center, thus leading to creation upon the mental plane through the agency of mind. That which is to be created must then be nourished and sustained by the love energy of nature issuing from the heart center.
The lower triangle referred to is:
- The solar plexus.
- The base of the spine.
- The generative organs.
Whilst the higher one is, as pointed out:
- The head.
- The throat.
- The heart.
Vừa xem qua, độc giả có thể giải thích rằng đây là huấn thị hãy sống độc thân, và ứng viên phải cam kết kiêng cử mọi biểu hiện của xung lực tính dục ở cõi trần, nhưng không phải vậy. Nhiều điểm đạo đồ đã đạt được mục tiêu khi đang dự vào quan hệ hôn nhân một cách khôn ngoan và thích đáng. Vị điểm đạo đồ vun bồi một thái độ trí tuệ đặc biệt, nhìn nhận rằng mọi hình thể biểu hiện đều thiêng liêng, và cõi trần cũng là một hình thức biểu lộ thiêng liêng như bất cứ cảnh giới nào cao siêu hơn. Vị này nhận thức rằng sự biểu hiện thấp nhất của thiên tính phải được đặt [205] dưới sự chế ngự hữu thức của thiên tính đó ở nội tâm, và mọi loại hành vi đều nên được điều hòa bằng cách cố gắng hoàn thành mọi bổn phận vànghĩa vụ, chế ngự mọi hành động và việc làm, sử dụng thể xác để giúp ích cho sự tiến bộ tinh thần của tập thể và hoàn thành định luật.
This might be interpreted by the superficial reader as an injunction to the celibate life, and the pledging of the applicant to abstain from all physical manifestation of the sex impulse. This is not so. Many initiates have attained their objective when duly and wisely participating in the marriage relation. An initiate cultivates a peculiar attitude of mind, wherein there is a recognition that all forms of manifestation are divine, and that the physical plane is as much a form of divine expression as any of the higher planes. He realizes that the lowest manifestation of divinity must be under the conscious control of that indwelling divinity, and [205] that all acts of every kind should be regulated by the endeavor to fulfil every duty and obligation, to control every action and deed, and to utilize the physical vehicle so that the group may be thereby benefited and aided in its spiritual progress, and the law perfectly fulfilled.
Không phủ nhận rằng, vào một số giai đoạn, đáng nên tạm thời kiêng cữ để hành giả hoàn toàn tự chủ theo một đường hướng đặc biệt nào đó, nhưng đó chỉ là một phương tiện để tiến đến một mục đích, và khi đã đạt được tự chủ, thì sẽ tiếp đến những giai đoạn hành giả phát biểu được các thuộc tính thiêng liêng một cách hoàn toàn qua thể xác, mỗi luân xa sẽ được sử dụng một cách bình thường và sáng suốt, và do đó giúp các mục đích của nhân loại tiến triển hơn.
Trong nhiều trường hợp các điểm đạo đồ và các Chân sư vẫn kết hôn, và thực hiện các bổn phận của mình một cách bình thường với tư cách người chồng, người vợ, và người gia trưởng, nhưng tất cả mọi sự đều được chế ngự, điều chỉnh bởi mục tiêu và chủ đích, và không có gì bị lung lạc bởi đam mê hay dục vọng. Nơi người hoàn thiện ở cõi trần, tất cả các luân xa đều được hoàn toàn chế ngự, và năng lượng của chúng được sử dụng một cách đúng đắn hợp lý. Ý chí tinh thần của Đấng Thượng Đế nội tâm là yếu tố chính, và sẽ có một nỗ lực thống nhất biểu lộ trên mọi cảnh giới qua tất cả các luân xa để mang lại lợi ích lớn nhất cho tuyệt đại đa số.
That it may be advisable, at certain stages, for a man to perfect control along any particular line through a temporary abstention is not to be denied, but that is a means to an end, and will be succeeded by stages when — the control having been gained — the man demonstrates perfectly through the medium of the physical body, the attributes of divinity, and every center will be normally and wisely used, and thus race purposes furthered.
Initiates and Masters, in many cases marry, and normally perform their duties as husbands, wives, and householders, but all is controlled and regulated by purpose and intention, and none is carried away by passion or desire. In the perfect man upon the physical plane, all the centers are under complete control, and their energy is legitimately used; the spiritual will of the divine inner God is the main factor, and there will be a unity of effort shown on all the planes through all the centers for the greatest good of the greatest number.
Sở dĩ điểm này được bàn đến vì có quá nhiều môn sinh lầm lẫn về các vấn đề này, và hoặc là vun bồi một thái độ trong trí tuệ khiến cho trọn cả bản tính bình thường của thân xác bị suy nhược, hoặc buông thả trong đam mê, trụy lạc, viện cớ là để “kích thích các luân xa,” và do đó làm phát triển bản tính cảm dục nhiều hơn. Vị điểm đạo đồ đích thực sẽ được nhận biết do tính cách bình thường khôn ngoan và thánh thiện, do y luôn luôn theo đúng những gì tốt đẹp nhất cho tập thể như các luật tập thể của đất nước đã chú trọng, do tính tự chủ và tránh mọi [206] hình thức thái quá, và do y nêu gương cho những người cộng sự chung quanh về sinh hoạt tinh thần và đạo hạnh chân chính, cũng như giới luật của cuộc sống y.
This point has been touched upon because so many students go astray upon these matters, and cultivate either an attitude of mind which results in the complete atrophying of the entire normal physical nature, or indulge in an orgy of license under the specious plea of “stimulating the centers,” and thus furthering astral development. The true initiate should be known by his wise and sanctified normality, by his steady conformity to that which is best for the group as emphasized by the group laws of the land, by his control and his refraining from excess of any kind, and by [206] the example he sets to his environing associates of spiritual living and moral rectitude, coupled with the discipline of his life.
Qui luật 12.
Người đệ tử hãy học cách dùng bàn tay trong phụng sự; y hãy tìm nơi đôi bàn chân mình dấu hiệu của vị sứ giả, và hãy học cách thấy bằng con mắt nhìn ra ngoài từ giữa hai mắt kia.
Khi đọc lần đầu, qui luật này có vẻ dễ giải thích, và dường như dạy điểm đạo đồ hãy dùng đôi bàn tay để phụng sự, dùng đôi chân để đi lo công việc của ĐĐCG, và phát triển thần nhãn. Nhưng thực nghĩa có tính nội môn hơn nhiều. Hiểu theo nghĩa huyền bí, “dùng đôi bàn tay” là sử dụng các luân xa trong lòng bàn tay để:-
- Chữa trị các loại bệnh của thể xác.
- Ban phúc lành, và do đó chữa trị các loại bệnh tình cảm.
- Đưa lên khi cầu nguyện, hoặc dùng các luân xa của bàn tay trong tham thiền để vận dụng vật chất cõi trí và các dòng tư tưởng.
Rule 12
Let the disciple learn the use of the hand in service; let him seek the mark of the messenger in his feet, and let him learn to see with the eye that looks out from between the two.
This rule looks easy of interpretation upon the first reading, and seems to enjoin upon the applicant the use of the hands in service, of the feet upon hierarchical errands, and the development of clairvoyance. But the real meaning is much more esoteric. Occultly understood, the “use of the hands” is the utilization of the chakras (or centers)in the palms of the hands in:
- Healing bodily ills.
- Blessing, and thus curing emotional ills.
- Raised in prayer, or the use of the centers of the hands during meditation in the manipulation of mental matter and currents.
Cần phải xem xét cẩn thận ba điểm này, và các môn sinh Tây phương có thể học hỏi được nhiều khi nghiên cứu cuộc đời của Đức Christ, và xem xét các phương pháp Ngài sử dụng đôi bàn tay. Không thể bàn nhiều hơn ở đây, vì vấn đề này quá rộng lớn nên không thể quảng diễn trong phần bình luận vắn tắt này.
“Dấu hiệu của sứ giả” ở bàn chân, là nói đến biểu tượng quen thuộc về đôi cánh trên gót chân của thần Mercury. Nhiều chi tiết về vấn đề này sẽ được tiết lộ cho những môn sinh nào trong các trường bí giáo cố gắng thu thập tất cả những gì có thể tìm được về vị Sứ giả của các Thần, cũng như cố gắng nghiên [207] cứu kỹ lưỡng những hiểu biết mà các môn sinh chiêm tinh đã thu thập được về Thủy tinh, và các môn sinh huyền bí đã thu được về vòng tiến hóa nội tại.
These three points will bear careful consideration, and much may be learnt by occidental students from the study of the life of Christ, and a consideration of his methods in using his hands. More cannot be said here, as the subject is too vast to be enlarged upon in this brief commentary.
The “mark of the messenger” in the feet, is a reference to that well-known symbol of the wings on the heels of Mercury. Much upon this subject will be revealed to students in occult schools who will gather together all that can be found concerning the Messenger of the Gods, and who also will study with care information which astrological [207] students have gleaned anent the planet Mercury, and which occult students have gathered concerning the inner round.
Theo bề ngoài, lời phát biểu “Con mắt nhìn ra từ giữa hai mắt kia” dường như có nghĩa là Con mắt thứ ba mà những nhà nhãn thông sử dụng, nhưng thực nghĩa còn sâu xa hơn thế rất nhiều và ẩn trong các sự việc sau đây:-
- Nội nhãn thông là điều mà mọi sinh linh hữu ngã thức, từ một vị Thượng Đế đến con người, đều đang trong tiến trình phát triển.
- Chân nhân, hay Chân ngã, đối với Chân thần cũng như con mắt thứ ba đối với con người, thế nên, được mô tả là nhìn ra từ giữa một bên là Chân thần, cái ngã tinh thần, và bên kia là phàm ngã.
Vì vậy, với ý nghĩa đầy đủ nhất, qui luật này khuyến khích ứng viên phát triển tâm thức Chân ngã để học cách hoạt động trong thể nguyên nhân ở các cấp cao của cõi trí, từ đó chế ngự tất cả các hạ thể, và thấy rõ được tất cả những gì có thể thấy trong tam giới, từ quá khứ đến tương lai.
On the surface, the expression “the eye which looks out from between the two” seems to signify the third eye, which clairvoyants utilize, but the meaning is very much deeper than that, and lies hidden in the following facts:
That the inner vision is that which all self-conscious beings, from a Logos to a man, are in process of developing.
That the Ego, or Higher Self, is literally to the Monad what the third eye is to man, and therefore is described as looking out from between the Monad or spiritual self on the one hand, and the personal self on the other.
In the fullest sense, therefore, this rule incites the applicant to develop self-consciousness, and thus learn to function in the causal body on the higher levels of the mental plane, controlling from thence all the lower vehicles and seeing clearly all that can be seen in the three worlds, in the past and in the future.
Qui luật 13.
Có bốn điều người đệ tử phải học và hiểu trước khi y có thể được cho thấy bí nhiệm sâu kín nhất: thứ nhất, các định luật của nguồn phát quang; hai là năm ý nghĩa của sự từ hóa; ba là sự chuyển hóa hay là bí nhiệm thất truyền của khoa luyện kim; và sau hết là chữ đầu tiên của Linh từ đã được truyền thụ, hay là danh xưng ẩn giấu của Chân nhân.
Không thể quảng diễn qui luật này vì nó liên quan đến các [208] bí nhiệm, và những chủ đề quá rộng lớn không thể bàn đầy đủ ở đây. Nó được bao gồm trong các qui luật này để có thể trở thành một chủ đề cho tham thiền, nghiên cứu, và thảo luận tập thể.
Qui luật cuối cùng rất ngắn chỉ gồm có năm từ.
Rule 13
Four things the disciple must learn and comprehend before he can be shewn that inmost mystery: first, the laws of that which radiates; the five meanings of magnetization make the second; the third is transmutation, or the secret lost of alchemy; and lastly the first letter of the Word which has been imparted, or the hidden name egoic.
This rule cannot be enlarged upon. It concerns mysteries and subjects too immense to be fully handled here. It is [208] included in these rules so that it may form a subject for meditation, for study, and for group discussion.
The final rule is very brief and consists of five words.
Qui luật 14.
Lắng nghe, tiếp xúc, thấy, áp dụng, biết.
Các từ này liên quan đến điều mà người Thiên Chúa giáo có thể gọi một cách thích hợp là sự hiến dâng ba giác quan chính yếu, và sử dụng chúng trong cuộc tiến hóa của sự sống tinh thần nội tại; sau đó áp dụng những gì đã học và biết , với thành quả là kiến thức được thấu đáo.
Rule 14
Listen, touch, see, apply, know.
These words concern what the Christian might aptly call the consecration of the three major senses, and their utilization in the evolution of the inner spiritual life, application then made of that which is learnt and ascertained, followed by the fruition of realized knowledge. [209]
VẤN ĐÁP GIÁO HUẤN NỘI MÔN – AN ESOTERIC CATECHISM
Sau đây là những lời trích từ Văn khố XIII, Hồ sơ của các Chân sư, có mang bức thông điệp cho người đang phấn đấu trên Đường Đạo. Phần nào đó,chúng giống như một cuốn sách phần cổ xưa, thường được những người tham dự các bí nhiệm cấp thấp xướng tụng, trước khi họ chuyển vào các bí nhiệm cao trọng hơn.
The following are some words from Archive XIII of the Masters’ Records, that carry with them a message for the struggler on the Way. They are somewhat on the line of an old catechism, and used to be recited by the participants in the lesser mysteries before they passed on into the greater.
Hởi Hành giả, bạn thấy gì? Hãy ngước mắt nhìn lên và nói cho biết những gì bạn thấy.
Tôi thấy một cái thang, vươn lên trong vòm trời xanh biếc, chân thang bị che khuất trong những đám sương mù bao quanh hành tinh chúng ta.
What seest thou, O Pilgrim? Lift up thine eyes and tell what thou beholdest.
I see a ladder, mounting within the vault of blue, its feet lost sight of in the mists and fogs that circle round our planet.
Hởi Hành giả, bạn đứng ở đâu? Bạn đang đặt chân trên những gì?
Tôi đang đứng trên một nấc thang, gần đạt được phần thứ tư; phần kế tiếp trải dài trước mắt tôi, vào trong bóng tối của đêm giông tố. Cao hơn phạm vi hoàn toàn u tối đó, tôi thấy chiếc thang lại vươn lên, rực rỡ và chói lọi ở phần thứ năm.
Where standest thou, O Pilgrim? On what are placed thy feet?
I stand upon a portion of the ladder, the fourth division well nigh mounted; its latter part stretches before me into the darkness of a stormy night. Beyond that sphere of utter gloom I see the ladder rise again, radiant and glowing in its fifth division.
Điều gì đánh dấu các phần mà bạn vừa mô tả là riêng biệt nhau? Chẳng phải tất cả hợp thành chỉ một cái thang đầy đủ duy nhất, gồm những phần được đánh dấu rõ rệt, hay sao?
Luôn luôn có một khoảng trống trước mắt, mà (khi chúng ta đến gần hơn) nó tự phân giải thành một Thập tự giá, nhờ đó chúng ta vượt lên phần kế tiếp. [210]
What marks those portions which you thus describe as separated from another part? Do not all form but one completed ladder of clearly marked proportions
Always a gap appeareth to the eye, which (when approached more closely) resolveth then itself into a Cross, by which one mounteth to the next division.
Vậy thì điều gì tạo nên Thập tự giá này? Nó giúp bạn vượt lên cách nào?
Thập tự giá được tạo bằng những nguyện vọng tinh thần, ghi khắc bởi sự thôi thúc thiêng liêng, cắt ngang qua các dục vọng hạ giới, do cuộc sống phát triển ở cõi thấp tạo ra.
What causeth then the Cross? How mount you by its aid?
The Cross is formed by aspirations, instilled by Godlike urge, which cut athwart the lower world desires, implanted by the life developed from below.
Hãy giải thích rõ hơn điều bạn muốn nói, và làm thế nào Thập tự giá ấy trở thành Đường Đạo.
Các cánh cửa của Thập tự giá trở thành đường phân chia vĩ đại giữa cái thấp và cái cao. Đôi tay bị đóng đinh trên các cánh này, -là những bàn tay nắm và giữ, phục vụ cho các nhu cầu thấp thỏi, đã quen làm thế qua nhiều thời kỳ lâu dài. Xem kìa, khi đôi tay trở nên bất lực, không thể nắm và giữ, thì sự sống nội tại thoát khỏi lớp vỏ của nó và leo lên cánh thẳng đứng. Nó vượt khỏi phần thứ tư thấp kém, và Thập tự giá bắt cầu qua khoảng trống.
Explain more clearly what you mean, and how that Cross becomes the Way.
The arms that form the Cross become the great dividing line, placed twixt the lower and the higher. Upon those arms the hands are nailed,—the hands that grasp and hold, ministering to the lower needs, trained thus through many aeons. Lo, when the hands are helpless held, and cannot grasp and hold, the inner life slips from its sheath, mounting the limb upright. It passeth from the lower fourth, and the Cross doth bridge the gap.
Người ta có dễ dàng leo lên cánh thẳng đứng và vượt khỏi phần thứ tư hay không?
Họ vượt qua những giai đoạn đầy nước mắt, qua mây che và sương mù; họ đau khổ và tử vong. Họ giả từ tất cả các bạn bè ở trần gian; họ đơn độc bước lên Đường Đạo; họ bắt cầu qua khoảng trống bằng những hành động yêu thương được thực hiện trong nỗi đau khổ của cuộc sống; họ đưa một tay lên với Vị đứng ngay phía trên; họ đưa tay xuống cho người đứng ngay phía dưới. Những bàn tay, được tháo gỡ khỏi các cánh nằm ngang, thì được tự do nhưng lại bị cầm giữ. Chỉ có những bàn tay còn dấu đinh và trống không mới có thể giữ cho dây chuyền liên tục.
Pass they with ease that mount that limb, and leave the fourth behind?
They pass through tears, through clouds and mists they suffer and they die. They bid adieu to all earth’s friends; they mount the way alone they bridge the gap with loving deeds done in the pain of living; they lift one hand aloft to Him who standeth just above; they lean one downward to the man who standeth next below. The hands, freed from the transverse arms, are freed but to be held. Only the empty nail-marked hands can keep the chain complete.
Chiều dài của cái thang chấm dứt ở đâu? Nơi tối tăm nào nó xuyên qua và phần cuối thang phóng đến đâu?
Nó cắt ngang bầu trời trong sáng với vô vàn hình thể trong đó; [211] nó xuyên qua cõi của nước, bị những triều sóng xoáy cuốn trôi; nó đi qua địa ngục sâu thẳm, đắm chìm vào ảo ảnh dày đặc nhất, và tận cùng trong ngọn lửa tiềm ẩn, hồ lửa tan chảy bừng cháy dữ dội, tiếp xúc với các cư dân của lửa, là các hoả thần của nguồn nhiệt đỏ rực.
Where ends the ladder’s length? What point of gloom is pierced by it and where projects its end?
It cuts the crystallising sphere with all its myriad forms; it [Page 211] pierces through the watery plane, washed by the swirling tides; it passes through the nethermost hell, down into densest maya, and ends within the latent fire, the molten lake of fiercest burning, touching the denizens of fire, the Agnichaitans of the scarlet heat.
Cái thang kéo dài đến tận đâu? Đâu là tuyệt đích của nó?
Nó vượt qua các bầu trời chói rạng, qua tất cả sáu phần của chúng. Nó vươn lên đến Ngôi đại hùng trong phần thứ năm cuối cùng, và từ đó đến một Ngôi khác còn cao hơn.
Where mounts the ladder’s length? Where is its consummation?
It mounteth through the radiant spheres, through all their six divisions. It riseth to the mighty Seat within the final fifth, and passeth from that mighty Seat to yet another greater.
Đấng nào ngự trên Ngôi đại hùng trong phần thứ năm cuối cùng?
Thánh danh Ngài chúng ta không nên đề cập đến, trừ khi với lòng hoàn toàn sùng kính; Đấng Vĩnh Cửu Thanh Xuân, Ánh Sáng của chính Sự Sống, Đấng Kỳ Diệu, Đấng Thái Cổ, vị Chúa Bác Ái của Kim tinh, vị Đại Thiên Tôn với Thanh gươm Sáng rực, Đấng Hòa Bình của hoàn cầu.
Who sits upon that mighty Seat within the final fifth?
He with the Name we mention not, save in utter adoration; the Youth of Endless Summers, the Light of Life itself, the Wondrous One, the Ancient One, Lord of Venusian Love, the great Kumara with the Flaming Sword, the peace of all the Earth.
Chỉ có Đấng Kỳ Diệu ngự trên ngôi lam ngọc của Ngài sao?
Chỉ có mình Ngài, nhưng kế bên Ngài trên các bậc cầu vồng có ba vị Chúa khác, đang thu thập thành quả công việc của các Ngài và hiến dâng mọi điều đạt được để trợ giúp vị Chúa Tể Bác Ái.
Sits He alone, this Wondrous One, upon His sapphire throne?
He sits alone, yet close upon the rainbow steps there stand three other Lords, garnering the product of Their work and sacrificing all Their gain to aid the Lord of Love.
Trong công tác, các Ngài được phù trợ hay chăng? Có Đấng nào quyền năng cao cả hơn chúng ta cũng đứng trên cái thang này không?
Bốn Đấng Đại Hùng, là Hành động và Bác ái, hợp tác sáng suốt với những Huynh đệ cấp thấp của các Ngài, là ba vị Chúa Cao cả mà chúng ta đều biết. [212]
Are They assisted in Their work? Do other Ones of greater powers than ours stand too upon the ladder?
These mighty Four, Action and Love, in wise co-operation work with Their brothers of a lesser grade, the three Great Lords We know.
Ai trợ giúp những vị Chúa đại hùng này? Ai thực hiện công tác của các Ngài là nối kết cái thấp với cái cao?
Các Huynh đệ của Bác ái Thiêng liêng đủ mọi cấp bậc. Các vị này ở bên trong phần thứ năm cuối cùng cho đến khi nó hấp thu được tất cả phần thứ tư.
Who aid these mighty Lords Who carry on Their work, linking the lower with the higher?
The Brothers of Logoic Love in all Their many grades. They stay within the final fifth till it absorbeth all the fourth.
Rồi cái thang vươn lên đến đâu?
Đến Đấng Chúa Tể vĩ đại của tất cả, trước Ngài, ngay cả Đấng Thái Cổ cũng nghiêng mình tuân phục; trước Ngôi ánh sáng huy hoàng của Ngài, các Thiên thần cao cấp nhất, các Chân sư và các vị Chúa Từ Bi toàn vẹn đều phủ phục, và nghiêng mình kính cẩn, chờ đợi Linh từ trỗi lên.
Where mounts the ladder then?
To the greatest Lord of all, before Whom e’en that Ancient One bends in obeisance low; before Whose throne of effulgent light Angels of highest rank, Masters and Lords of uttermost compassion, prostrate Themselves and humbly bend, awaiting the Word to rise.
Khi nào Linh từ đó trỗi lên và điều gì xảy ra khi nó vang dội qua các bầu thế giới?
Linh từ đó chỉ ngân lên khi tất cả đã được thực hiện, khi Đấng Chúa Tể Bác ái Vô tận cho rằng công tác đã đúng đắn, tốt đẹp. Bấy giờ Ngài xướng lên một Linh từ thứ yếu rung động xuyên qua hệ thống. Đấng Chúa Tể vĩ đại hơn của nguồn Bác ái vũ trụ, khi nghe âm thanh này luân chuyển, bèn thêm vào cho hòa âm hoàn tất và làm rung chuyển toàn thể.
When sounds that Word and what transpires when it echoes through the spheres?
That Word sounds not till all is done, until the Lord of endless love deemeth the work correct. He uttereth then a lesser Word that vibrateth through the scheme. The greater Lord of cosmic Love, hearing the circling sound, addeth completion to the chord, and breatheth forth the whole.
Hởi Hành giả trên Đường Đạo, chúng ta sẽ thấy gì khi hòa âm cuối cùng này ngân lên?
Nhạc khúc của các bầu thế giới vô tận, sự hòa hợp của bảy; sẽ không còn nước mắt, tội lỗi, tranh chấp, các hình hài tan rã; cái thang đã hoàn tất, sự hòa hợp trong Tất cả, các bầu thế giới luân chuyển đã thành tựu viên mãn và đi vào thái bình.
What will be seen, O Pilgrim on the Way, when sounds that final chord?
The music of the endless spheres, the merging of the seven; the end of tears, of sin, of strife, the shattering of forms; the finish of the ladder, the blending in the All, completion of the circling spheres and their entry into peace.
Hởi Hành giả trên Đường Đạo, bạn đóng vai trò nào trong hệ thống này? Bạn sẽ nhập vào sự bình an bằng cách nào? Làm thế nào để đứng trước Đấng Chúa Tể?
Tôi thực hiện phần việc của mình với lòng kiên quyết và nguyện vọng thiết tha; tôi nhìn lên trên, tôi giúp kẻ dưới; tôi không mơ tưởng cũng không ngơi nghỉ; tôi tận lực làm việc; tôi phụng sự; tôi thu hoạch; tôi cầu nguyện; tôi là Thập tự giá; tôi là Đường Đạo; tôi dấn bước trên công trình tôi thực hiện; tôi vượt lên trên phàm ngã đã chết của tôi; tôi diệt trừ dục vọng, tôi nỗ lực, quên hết mọi phần thưởng. Tôi từ bỏ bình an; tôi giả từ sự ngơi nghỉ, và trong đau thương thống khổ tôi đánh mất phàm ngã và tìm thấy Chân ngã của chính mình; tôi nhập vào sự bình an.
What part, O Pilgrim on the Way. play you within this scheme? How will you enter into peace? How stand before your Lord?
I play my part with stern resolve, with earnest aspiration; [Page 213] I look above, I help below; I dream not, nor I rest; I toil; I serve; I reap; I pray; I am the Cross; I am the Way; I tread upon the work I do; I mount upon my slain self; I kill desire, and I strive, forgetting all reward. I forego peace; I forfeit rest, and in the stress of pain I lose myself and find Myself and enter into peace.
Chia sẻ: