Con người nghĩ trong Tâm như thế nào thì y sẽ như thế ấy
Số Mệnh là có, đó là Luật Nhân Qủa, biểu hiện qua quy luật Thời gian, đến thời điểm hội tụ đủ Nhân Duyên, là lúc Bạn nhận lãnh Quả báo, dù là Quả tốt hay xấu bạn buộc phải nhận nếu bạn không Tu Tâm Dưỡng Tánh như Đức Phật dạy - Sách Liễu Phàm Tứ Huấn là nghiệm chứng học Phật sửa Mệnh tuyệt đỉnh nhân gian
Căn cứ ngày, tháng, năm sinh người ta có thể dự đoán được Vận Mệnh mỗi người. Số Mệnh có thể thay đổi được
Cải Mệnh đỉnh nhất= Xin thường niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, do đó nói Đức năng thắng Số Mệnh= Luôn đúng
Chết không phải là hết, Linh hồn luôn luân hồi và Trường tồn =>
Rất cần luôn vui vẻ nhận lãnh Quả báo dù tốt hay xấu đến đâu và chuẩn bị tốt cho cái chết để Tái sinh hiển nhiên có được kiếp sau tốt đẹp hơn.
Xem về bệnh tật cho mình (TSBD-67)
Chia sẻ:
3 thoughts on “Xem về bệnh tật cho mình (TSBD-67)”
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.
Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.
Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.