TỔNG HỢP VỀ PHÁT TÂM – PHÁT NGUYỆN VÀ LỜI THỀ
BÀI VIẾT SỐ 1
CÔNG ĐỨC PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
… Bấy giờ ở trong hội, có một vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Hỷ Vương, liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chấp tay ngưỡng bạch đức Như Lai rằng:
– Bồ Tát phải tri ân báo ân như thế nào?
Phật bảo Bồ Tát Hỷ Vương:
-Thiện nam tử! Ông hãy nghe cho kỹ: Bồ Tát muốn tri ân báo ân nên phải phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, và dạy bảo tất cả chúng sinh phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bồ Tát Hỷ Vương hỏi:
– Nếu phát tâm Bồ Đề, sẽ phải phát như thế nào? Và nhân đâu mà có thể phát được?
Phật nói:
-Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát, khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha.
Cho nên Bồ Tát khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, thời được gọi là Bồ Đề nhân duyên, chúng sinh nhân duyên, chính nghĩa nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp nhân duyên, thâu nhiếp tất cả cỗi gốc thiện pháp.
Cho nên Bồ Tát được gọi là bậc Đại Thiện, cũng gọi là cỗi gốc lành của tất cả chúng sinh, vì vậy mà Bồ Tát có thể phá trừ ba nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý v.v… cho tất cả chúng sinh. Tất cả những thệ nguyện của thế gian, tất cả thệ nguyện của xuất thế gian, không có thệ nguyện nào bằng được thệ nguyện Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Thệ nguyện như thế, thực không gì hơn được, không gì trên được nữa.
Bồ Tát khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, có năm việc:
Một là tính,
Hai là hạnh,
Ba là cảnh giới,
Bốn là công đức,
Năm là tăng tưởng.
Bồ Tát nếu hay phát được tâm Bồ Đề, thì được gọi là Ma Ha Tát, quyết định sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trọn Đại thừa hạnh.
Cho nên khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, tức hay thâu nhiếp được tất cả thiện pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm Bồ Đề, tu hành mong được quả vị Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nếu không phát tâm quyết không thể nào thành được, cho nên phát tâm, là cỗi gốc của quả vị Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Bồ Tát Ma Ha Tát coi thấy chúng sinh phải chịu những sự khổ não, thì lòng sinh thương xót, nên Bồ Tát, nhân tâm từ bi, mà phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nhân phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, mà hay tu tập ba mươi bảy trợ đạo pháp, nhân tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, mà chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên phát tâm là cỗi gốc của đạo Vô thượng Bồ Đề, do phát tâm Bồ Đề, mới hay hành trì được Bồ Tát giới.
Cho nên phát tâm gọi là gốc, gọi là nhân, gọi là nhành, gọi là lá, cũng gọi là hoa, lần lượt gọi là quả, cũng gọi là hạt. Bồ Tát phát tâm, cũng có người thì được rốt ráo, có người thì không được rốt ráo, người được rốt ráo thì mãi mãi cho đến khi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trọn không bao giờ thoái chuyển. Còn người không được rốt ráo, là trong tâm đã có sự thoái chuyển. Thoái chuyển có hai thứ: Một là thoái chuyển rốt ráo, hai là thoái chuyển không rốt ráo.
Người thoái chuyển rốt ráo, là người trọn không thể phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, không thể suy tìm, tu tập pháp đó được.
Người thoái chuyển không rốt ráo, là người thường cầu phát tâm Bồ Đề, thường tu tập pháp đó.
Phát tâm Bồ Đề có 4 thứ:
– Một là, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, hoặc được coi thấy, nghe thấy những việc bất khả tư nghị của chư Phật, Bồ Tát, liền sinh tâm cung kính, và nghĩ rằng: “Những sự của Phật, Bồ Tát là bất khả tư nghị, nếu Phật, Bồ Tát chứng được sự bất khả tư nghị ấy, thì ta đây cũng quyết sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên ta dốc lòng, nhớ nghĩ đạo Bồ Đề, và phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
– Hai là, lại có người không được coi thấy những sự bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát mà chỉ nghe thấy cái tạng bí mật của chư Phật, Bồ Tát liền sinh tâm cung kính tin tưởng, cầu đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, và Ma Ha Bát Nhã, cho nên phát tâm Bồ Đề.
– Ba là, lại có người không được coi thấy những việc bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát cũng không được nghe pháp, mà do vì khi coi thấy pháp diệt, rồi trong lòng nghĩ rằng: “Vô thượng Phật pháp, hay diệt trừ được vô lượng khổ não cho chúng sinh, làm ích lợi lớn lao cho chúng sinh, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, mới hay làm cho Phật pháp được trường tồn bất diệt, ta ngày nay cũng nên phải phát tâm Bồ Đề, khiến cho các chúng sinh, xa lìa phiền não, thệ nguyện thân này của ta, dầu cho phải chịu mọi sự đại khổ não đi chăng nữa, ta quyết giữ gìn Phật pháp, khiến cho Phật pháp được trường tồn mãi mãi ở thế gian, cho nên ta phát tâm Bồ Đề.
– Bốn là, lại có người không được coi thấy chư Phật, Bồ Tát, không được nghe pháp, khi pháp diệt cũng không được thấy, mà chỉ thấy tất cả chúng sinh ở trong đời ác trược, đủ mọi thứ phiền não, tham dục, giận tức, ngu si, không thẹn, không hổ, bỏn xẻn, tật đố, ganh ghét, nghi ngờ, lười biến v.v… thấy như thế rồi, liền nghĩ rằng: “Trong đời ác trược này, chúng sinh chẳng chịu tu thiện, tâm Nhị thừa còn không phát, nữa là tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, ta nay phải nên phát tâm Bồ Đề, phát tâm Bồ Đề rồi, liền dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác”.
Bấy giờ Ngài Hỷ Vương Bồ Tát, lại bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Bồ Tát tri ân báo ân bằng cách tự phát tâm Bồ Đề và dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề. Song Đức Như Lai thuở xưa khi còn phải sinh tử, thoạt mới phát tâm Bồ Đề, là do nhân duyên gì?
Phật dạy:
– Thiện nam tử! Về đời quá khứ lâu xa, kiếp số nhiều không thể kể tính được, khi ta còn ở trong vòng sinh tử, do phiền não trọng chướng, tạo nên những nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý, nên phải đọa lạc vào các địa ngục như: Địa ngục A ha ha, địa ngục A ba ba, địa ngục A đạt đa, địa ngục Đồng phủ, địa ngục Đại đồng phủ, địa ngục Hắc thạch, địa ngục Đại hắc thạch, cho đến địa ngục Hỏa xa. Ta nhớ khi ta phải đọa vào địa ngục Hỏa xa, ta cùng với hai người bạn phải kéo một cái xe lửa, bốc cháy ngùn ngụt, quỷ đầu trâu tên là A Bàng, ngồi ở trên xe, mắm miệng, nghiến răng, trợn mắt, miệng, mắt, tai, mũi đều phun ra khói lửa, thân thể to lớn, tay chân gân guốc, hình sắc tía đen, tay cầm gậy sắt, đánh đập luôn luôn, mặc dầu ta bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn cố sức kéo, lúc đó hai người bạn của ta, vì hơi sức yếu đuối, kéo không nổi, nên bị quỷ đầu trâu A Bàng, lấy đinh ba bằng sắt, đâm vào bụng, lấy gậy bằng sắt đập vào lưng, máu phun ra như suối chảy, đau đớn khó nhẫn, những người ấy cất tiếng kêu gào rất thảm thiết, người thì kêu cha mẹ, người thì kêu vợ con. Nhưng dầu có kêu gào như thế, cũng chẳng ích lợi gì đối với mình. Lúc ấy, ta thấy những người bạn của ta chịu sự khổ não như vậy, lòng ta sinh ra thương xót. Nhân lòng sinh tưởng thương xót ấy, cho nên ta phát tâm Bồ Đề.
Lại vì những người chịu tội ấy, mà khuyên bảo quỷ đầu trâu A Bàng rằng:
-Những người phải chịu tội đây, thực đáng thương xót, xin ông hãy rủ lòng nới tay, đừng nên đánh đập họ tội nghiệp.
Lúc ấy quỷ đầu trâu A Bàng, nghe ta nói như thế, lòng sinh giận tức, dùng đinh ba bằng sắt đâm vào cổ ta, chết liền tại chỗ, ta liền được thoát khỏi cái tội trăm kiếp phải đọa lạc ở nơi địa ngục Hỏa xa, chính vì lúc đó ta phát được tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác vậy.
Phật bảo Ngài Bồ Tát Hỷ Vương:
– Người kéo xe lửa tức là thân ta ngày nay, nhân phát tâm Bồ Đề, mà chóng được thành Phật. Thế nên biết: Tất cả chúng sinh phát tâm Bồ Đề, sự đó chẳng phải một, hoặc nhân lòng từ bi, hoặc nhân lòng giận tức, hoặc nhân lòng bố thí, hoặc nhân lòng bỏn xẻn, hoặc nhân lòng vui mừng, hoặc nhân phiền não, hoặc nhân ân ái ly biệt, hoặc nhân sự oán ghét gặp gỡ, hoặc nhân gần gũi bạn lành, hoặc nhân bạn ác, hoặc nhân được coi thấy Phật, hoặc nhân được nghe pháp… cho nên biết: Tất cả chúng sinh, phát tâm Bồ Đề, mỗi mỗi chẳng phải đồng nhất.
Hỷ Vương nên biết! Bồ Tát Ma Ha Tát, tri ân báo ân, sự đó như thế.
Khi Phật nói pháp ấy rồi, có một vạn tám trăm ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Trong tất cả đại chúng, có người được chứng quả Tu đà hoàn, cho đến A la hán, Thiên địa quỷ thần, Nhân và Phi nhân cũng phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sau khi được nghe Phật nói pháp, ai nấy đều vui mừng, đầu mặt làm lễ Phật, rồi quanh về phía bên phải mà lui trở ra.
(TRÍCH KINH ‘ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN’
PHẨM PHÁT TÂM BỒ ĐỀ THỨ TƯ)
CÁC CÂU TRUYỆN PHÁT NGUYỆN VÀ ỨNG NGHIỆM
PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI – ĂN CHAY – KHÔNG SÁT SINH, LẬP TỨC TỪ CÕI CHẾT TRỞ VỀ.
(Trích” Nhân Quả Báo Ứng – Những Điều Mắt Thấy Tai Nghe”)
– Cư Sĩ Tịnh Tùng –
Cư sĩ Hoàng Tuệ Đôn là người ở thị trấn Hoành Kinh, huyện Tô Châu, tỉnh Giang Tô.
Ngày 13/01/1938, do vì làm việc quá sức, cộng thêm bị nhiễm gió độc, cho nên thân thể vô cùng mỏi mệt…
Chẳng những thế cánh tay trái lại mọc một mụt độc, dù chữa trị thế nào cũng không thấy bớt, mụn độc to bằng cái chén, máu mủ chảy suốt ngày, khiến cho cư sĩ phát sốt lúc nóng lúc lạnh, cơm nước cũng không buồn ăn…
Đến ngày 14/ 02, tức là 31 ngày từ khi phát bệnh, bác sĩ báo với người nhà đưa ông về vì đã hết phương chữa trị.
Cư sĩ biết mình không thoát khỏi nạn kiếp này, không giống như mọi người, khi đứng trước bờ vực tử thần thì hầu hết lo lắng, sợ sệt, nhưng cư sĩ rất cừ, trong lúc đau đớn ông nghĩ lúc bình thường mình rất thích ăn cá tươi, tạo nghiệp sát quá nặng, cho nên mới gặp nạn kiếp này, nghĩ đến đây ông thấy hổ thẹn, ăn năn những ác nghiệp đã làm, nằm trên giường cư sĩ luôn PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI:
“Nguyện từ đây cho đến khi nhắm mắt không ăn cá nữa, lại kiền thành niệm Bồ-Tát Quán Thế Âm, cầu Ngài gia hộ”.
Sau khi phát nguyện khoảng ba giờ, đột nhiên ông nôn ra khoảng một chén máu và mủ, cư sĩ nghĩ đã nôn máu và mủ đồng nghĩa với mạng sống sắp kết thúc, do đó ông nhất tâm niệm Phật chờ vãng sinh.
Vài phút sau, cư sĩ cảm giác có mùi thơm phảng phất khắp nhà, cơn sốt của ông tự nhiên không còn tái phát nữa, bệnh tình cũng giảm bớt một nửa và bắt đầu ăn uống lại bình thường.
Ngày hôm sau, có một người bạn đến thăm, thấy bệnh tình của cư sĩ, ông liền nói ở nhà ông có một loại thuốc, nếu cư sĩ cần thì lấy dùng thử, thật kỳ diệu, vừa dùng đã thấy hiệu quả ngay, vài ngày sau cư sĩ ngồi dậy và sinh hoạt bình thường, bệnh tình dần dần bình phục.
*****************************************
PHÁT NGUYỆN KHÔNG SÁT SINH.
Tại Hàng Châu, bà Ngô vợ cư sĩ Thái Phúc Sinh, vào ngày 7/1934, giữa lòng bàn tay phải bỗng mọc một mụt nhọt, lúc mới mọc rất nhỏ, đau nhức không thể chịu được, nó hành suốt ngày đêm không sao chợp mắt được, chưa đến 10 ngày, mụt nhọt ấy sưng tấy lên, ảnh hưởng đến cả cánh tay, khiến bà buồn rầu, lo lắng, thật là nguy hiểm.
Bà đến rất nhiều ngoại khoa để chữa trị, nhưng họ đều bó tay. Thái cư sĩ kiền thành cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ cho vợ được thoát khỏi bệnh tật, bà Ngô cũng PHÁT NGUYỆN: “Từ đây về sau vĩnh viễn không sát hại sinh mạng chúng sinh”.
Ngày hôm sau, cô giúp việc ra ngoài tìm thuốc cho bà, đi đến nửa đường gặp một vị bác sĩ khoa nhi, thấy vị ấy tự giới thiệu về mình, cô giúp việc liền mời vị bác sĩ về khám bệnh cho bà Ngô.
Quả nhiên sau mười mấy lần thoa thuốc, ngòi mụt nhọt lòi lên, vị bác sĩ nặn nhẹ mủ chảy ra lai láng, ước khoảng hơn một chén lớn, vài ngày sau bớt hẳn.
**********************************************
VỢ CON GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SINH NGUYỆN ĂN CHAY VÌ CHỒNG .
Ở huyện Quỳ Môn tỉnh Tứ Xuyên có cư sĩ Lý Bồi, năm 1928, vì bọn thổ phỉ hoành hành, nên cư sĩ cùng vợ là Khâu Hoành Bạch chuyển nhà đến Huyện Vạn.
Mùa thu, sau khi nghe Pháp sư Đại Dụng giảng kinh, hai vợ chồng phát tâm tham gia Đông Xuyên Phật Học Xã, kiền thành niệm Phật, chưa từng có tâm giải đãi.
Đến tháng 8 năm sau, Lý cư sĩ bị bệnh lỵ rất nặng, đưa vào bệnh viện chữa trị hơn 10 ngày vẫn không thấy khá hơn, các bác sĩ bảo đem ông về hỏi ông muốn ăn gì thì cho ông ăn và lo tang sự là vừa, vì bệnh lý của ông đã hết thuốc chữa rồi.
Vợ con ông nghe xong sợ hãi khóc than thảm thiết, họ bèn đốt hương lên bàn Phật, cầu đức Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát Quán Thế Âm, xin các Ngài từ bi gia hộ cho ông được thoát khỏi kiếp nạn này, họ cầu:
“Nam mô A-Di-Đà Phật! Nam mô Quán Thế Âm Bồ-Tát!
Xin các Ngài gia hộ cho chồng con được hết bệnh, nếu anh ấy hết bệnh thì con nguyện suốt đời giữ giới không sát sinh, lại ăn chay trường 5 năm và còn ấn tống Quán Âm Khởi Tín để khuyến hoá những người hữu duyên.”
Vợ con ông vừa cầu nguyện xong, Lý cư sĩ đột nhiên gọi vợ đến bên giường và nói rằng:
“Vừa rồi anh thấy có một người đứng trước giường, màu da vàng óng giống các vị La-Hán, đứng một lúc rồi ẩn.”
Cũng thuốc đó mà uống trong suốt 10 ngày không thấy hiệu quả, nhưng hôm nay uống lại thấy hiệu quả ngay, mấy ngày sau bệnh lý của cư sĩ bớt hẳn, thân thể khoẻ mạnh như xưa.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT !
NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT!