Nhân Quả – Các Trích đoạn Đức DK dậy (M.T.Mới đưa lên MFVN)

Phật Học: Các Kinh Và Giới Luật

Nhân Quả và Trí tuệ

Trong một STT trước đây tôi có ghi lại lời của đức DK viết về Karma hay nghiệp quả. Tôi có khuyến khích các bạn MF ở phía Bắc có thêm phần học hỏi về Karma theo giáo lý của đức DK trong các buổi sinh hoạt tháng, xem nó khác với những giáo lý thông thường được giảng dạy như thế nào. Và để hỗ trợ cho điều đó, tôi có đề nghị các bạn ở Hà Nội dịch quyển Karmic Laws của Douglas Baker, nghiên cứu Compilation về Karma từ các sách của đức DK, các quyển sách về Karma của bà Besant và Ông Leadbeater, quyển Many Mansions mà Nguyễn Hữu Kiệt dịch là Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời. Nếu các bạn nghiên cứu tất cả các điều trên, các bạn sẽ có một sự hiểu biết khác hẳn về Luật Nhân Quả, và các nghiên cứu của bạn có thể dùng để viết một bài luận dài cho năm 1 hoặc 2. Tôi thấy trên website của nhà trường có 2 DHY paper viết về Luật Nhân Quả, một là long paper (dài khoảng 14 trang) của 1 học viên năm 1, một là short paper của Course 520 của năm thứ 5. Theo tôi, các bài luận đó chưa triển khai hết tất cả những giảng dạy của Chân sư DK về Karma, do đó còn rất nhiều điều mà các bạn có thể nghiên cứu và học hỏi.

Trong bài viết này, tôi nói qua một yếu tố quan trọng của Nghiệp Quả mà đức DK  dạy là yếu tố của Trí Tuệ trong sự tạo thành nghiệp quả. Ý tưởng này cũng xuất phát từ một câu hỏi của một bạn học viên gởi đến cho tôi đã lâu. Bạn đó hỏi như sau:

Bạn đọc thấy một đoạn trong quyển Trị Liệu Huyền Môn (Esoteric Healing) như sau:

“Trong ý tưởng này, bạn có được manh mối chỉ rõ tại sao những kẻ phụng sự tốt lành và thánh thiện của nhân loại – trong chu kỳ thế giới này – đang mang một gánh nặng như thế về bệnh tật do nghiệp quả.” Trang 325 tiếng Việt, trang 291292 tiếng Anh. Nguyên tác tiếng Anh

“ In this idea, you have the clue as to why the good, the holy and the saintly servers of the race carry—in this world cycle—such a heavy load of karmic ill.” Và bạn hỏi:

Tại sao khi phụng sự lại mang lấy nghiệp thể hiện qua thân thể bị bệnh? Có phải người phụng sự đã bị nghiệp do thực hiện hành động phụng sụ với bản tính phàm ngã. Nếu phụng sự với sự hướng dẫn của chân ngã thì có bị nghiệp không?

Đây là một ví dụ thường gặp trong khi đọc sách của đức DK. Sách của Ngài một tầm mức cao hơn hẳn so với các sách huyền linh học thông thường do các tác giả khác viết. Nó đòi hỏi đọc thật kỹ, chú ý từng câu, từng chữ Ngài dùng, quen thuộc với cách hành văn của Ngài, và phải đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi lần bạn sẽ khám phá những ý tưởng mới mẻ. Trên hết, nó đòi hỏi trực giáctrí trừu tượng của người đọc.

Trở lại câu hỏi trên, ta nên đọc cả đoạn chứa câu đó thì ý nghĩa sẽ rõ ràng:

Very little suffering is attached to karma where there is ignorance, leading to irresponsibility and complete lack of thought and there is attached to affairs but little true sense of guilt. There may be unhappy conditions and distressing circumstances, but the ability to respond to such conditions with commensurate pain is lacking; there is little mental reaction to the processes of karmic retribution. This should be borne in mind. The Aryan race is now, however, so developed mentally and on a large scale that karma is truly horrible and agonizing and can express itself through world conditions. At the same timunfoldment and is a most hopeful and promising sign. In this idea, you have the clue as to why the good, the holy and the saintly servers of the race carry—in this world cycle—such a heavy load of karmic ill.e, the present widespread distress indicates the extent and success of human [292]

Rất ít đau khổ gắn với karma khi có sự vô minh, dẫn đến việc vô trách nhiệm và hoàn toàn thiếu suy nghĩ và được gắn liền với các sự việc mà chỉ có đôi chút ý thức thực sự về tội lỗi. thể có các tình trạng thiếu hạnh phúc và các trường hợp đau khổ, nhưng khả năng đáp ứng với các tình trạng đau khổ tương xứng như thế thì thiếu; có ít phản ứng trí tuệ đối với các tiến trình báo ứng nghiệp quả. Điều này cần được ghi nhớ. Tuy thế, giống dân Aryan ngày nay phát triển trí tuệ ở mức độ rộng lớn đến nỗi karma thật khủng khiếp và gây khổ sở, có thể tự biểu lộ qua các tình hình thế giới. Đồng thời nỗi thống khổ rộng lớn hiện nay cho thấy phạm vi và mức thành công của việc khai mở nơi con người là một dấu hiệu đầy hy vọng và hứa hẹn nhất. Trong ý tưởng này, bạn có được manh mối chỉ rõ tại sao những kẻ phụng sự tốt lành và thánh thiện của nhân loại – trong chu kỳ thế giới này – đang mang một gánh nặng như thế về bệnh tật do nghiệp quả.

Theo đó, chỉ có Karma khi có sự hiểu biết, nghĩa là thể trí đã phát triển, và trong giống dân Aryan thể trí phát triển mạnh thì Karma càng lớn. Với người thú hoang dã chưa phát triển trí tuệ, những hoạt động xấu xa họ làm là vô minh nên Karma ít trầm trọng (little suffering). Nhưng khi đã biết mà làm sai quấy thì hậu quả năng nề, và người càng tiến hóa cao mà sai quấy thì karma càng nặng. Những điểm đạo đồ phạm lỗi thì nghiệp quả vô cùng lớn so với người thường. Và không phải phụng sự gây ra Karma, mà những người bắt đầu phụng sự là những người đã phát triển khá cao, thể trí đã phát triển trong quá khứ và đã gây ra những Karma xấu, giờ phải trả. 

Tôi xin trích ở đây một đoạn trong White Magic viết về Karma. Với tôi, A Treatise on White Magic là một quyển sách cực hay, và mỗi lần đọc lại đều cho tôi những xúc cảm và ý tưởng mới. Ví dụ trong đoạn trích sau đây Ngài hóm hỉnh nói về thói quen của người chí nguyện, thích tò mò, thích biết những sự kiện huyền linh. Những những giáo lý quan trọng như “sống cho tử tế, nói những lời dịu dàng và minhtriết, và thực hành tính quên mình” lại khộng được quan tâm, trở những thành sáo ngữ. Đây là cái mà người học đạo chúng ta hay gặp phải. Những lời dạy đơn giản lặp đi lặp lại trờ thành nhàm chán và mất tác dụng, nhưng thật ra nó là điều quan trọng nhất với người học đạo.

+++++++++++++++++++++++++++++

Chỉ trong gia đình nhân loại và chỉ trong những người đang dùng năng lực trí tuệ một cách có ý thức thì bất kỳ nguyên nhân thuộc bất kỳ loại nào mới đang được tạo ra. Mọi nguyên nhân, được khởi xướng bởi một thể trí thuộc một loại nào đó, hoạt động hữu thức và suy tư một cách rõ ràng, đều được ấn định bởi một Chủ Thể Tư Tưởng (Thinker), và đây là luận điểm của các khoa học huyền bí một cách sâu sắc. Thái dương hệ chúng ta là một hình tư tưởng, nhưng là một hình tư tưởng tồn tại thực sự chừng nào mà tư tưởng còn tồn tại. Tất cả những gì tồn tại tạo thành một phần của luồng ý tưởng phát ra từ Chủ Thể Tư Tưởng thiêng liêng. Mọi tư tưởng đều là một phần của một dòng suối thiêng liêng. Đa số con người không tư duy, và vì thế họ không tạo ra các nhân vốn phải tạo ra hiệu quả của chúng đúng

Only in the human family and only among those human beings who are consciously using mind power are any causes of any kind being generated. All causes, being initiated by a mind of some kind, functioning consciously and thinking clearly, posit a Thinker, and this is profoundly the position of the occult sciences. Our solar system is a thought-form but one having real existence just as long as thought persists. All that is forms part of the current of ideas emanating from the divine Thinker. All thoughts are part of a divine stream. The mass of people think not, and so do not generate causes that must in due time produce their effect. lúc.

Bạn hỏi đâu là sự thật của những phát biểu được đưa ra trong nhiều quyển sách huyền bí hiện đại rằng xu hướng của đời sống hay chu kỳ của các kiếp sống tất nhiên biểu thị cho tương lai, và rằng các nguyên nhân phát khởi trong một kiếp sống sẽ thể hiện dưới hình thức là các hậu quả ở một kiếp khác? Khi các đời sống chủ yếu thiên về tình cảm và định hướng về vật chất, thì không phải chỉ một đời sống đặc biệt sẽ ấn định bước đi, mà là một nhóm các đời sống, cùng tương tác với nhau, sẽ ấn định tương lai theo một số đường hướng. Điều này luôn luôn đúng với tất cả những người ở một trình độ phát triển hữu thức nào đó, nơi mà họ bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng của đám đông, được nắn tạo một cách thiếu suy xét bởi truyền thống và ý kiến công chúng, thật sự bị đắm chìm trong những quyền lợi ích kỷ, và không phải đang “kiểm soát” chính các tình trạng mà là đang bị triều lưu tiến hóa cuốn đi. Đó là một hình thức của hoạt động tập thể (các nhóm bị chi phối bởi sự rung động của các hình tướng vật chấtcảm dục) tạo ra các đặc điểm và các xu hướng vốn gây nên tình hình và các hoàn cảnh chung quanh. Trong nhận thức này có ẩn giấu bí mật về nghiệp quả của chủng tộc và quốc gia, và các hoàn cảnh.

You ask, where then the truth of the statement made in many occult modern books that the trend of life or cycle of lives indicates necessarily the future, and that the causes initiated in one life work out as effects in another? Where lives are predominantly emotional and are physically oriented, it is not a particular life that sets the pace but the group of lives, simultaneously interacting with each other, predisposes the future along certain lines. This is eternally true of all human beings at a certain level of conscious development where they are swayed by mass ideas, molded unthinkingly by tradition and public opinion, are frankly immersed in selfish interests, and are not “taking hold” of conditions themselves but are being carried forward on the tide of evolution. It is a form of group activity (groups governed by the vibration of physical and astral forms) which produces the

[465] characteristics and tendencies which cause the situation and environing circumstances.       In this realization lies hid the secret of racial and national karma and conditions             .

Con người bình thường, nhạy cảm, năng động bị đắm chìm trong các nhóm này, và y phải tìm cách ra khỏi sự đắm chìm này bằng việc phát hiện và sử dụng thể trí của mình.   Bản năng phải nhường chỗ cho trí tuệ.  Trong các chu kỳ của các kiếp sống, các nhóm linh hồn nhập thể nhờ sự lôi kéo của các hình hài vật chất mà họ bị thu hút về phía chúng. Các năng lượng thu hút này trước kia đã được linh hồn sử dụng − cuối cùng bị loại bỏ và tan rã. Chính uy lực của hình hài mà trong trường hợp đầu tiên lôi cuốn linh hồn vào luân hồi, vì trong nửa đầu của diễn trình tiến hóa, vật chất – vốn có tổ chức cao trong thái dương hệ trước – là yếu tố chi phối. Sau đó, chúng ta biết, tinh thần cưỡi lên vai của vật chất. Sự tương tác của tinh thầnvật chất trên quần chúng hiện đang mạnh đến nỗi một trong các kinh nghiệm chính yếu mà một linh hồn phải trải qua, là việc thành tựu giai đoạn mà trong đó sức hút của vật chất bắt đầu suy yếu, và linh hồn học cách tự tách mình ra khỏi vật chất. Đây là kinh nghiệm mà nhân loại bây giờ đang vượt qua – lại một hoạt động tập thể trên một vòng xoắn cao hơn.

In these groups, the ordinary feeling, active man is immersed, and out of this immersion he must find his way by discovering and using his mind. Instinct must give place to intellect. For cycles of lives, groups of souls incarnate through the pull of the material forms, towards which they are attracted. These attractive energies have earlier been utilized by the soul—finally being discarded and disintegrated. It is the potency of form which in the first case draws the soul into incarnation, for in the first half of the evolutionary process matter—highly organized in a previous solar system—is the dominant factor. Later, we know, spirit mounts on the shoulder of matter. The mass interplay of spirit and matter is now so potent that one of the major experiences that a soul undergoes is the achieving of the stage wherein the pull of matter begins to wane and the soul learns to detach itself. This is the experience through which humanity is now passing—again a group activity on a higher turn of the spiral.

Các nét khái quát lớn thực ra an toàn hơn so với thông tin chi tiết và thường sai lầm liên quan đến các qui luật đang chi phối việc nhận lấy và từ bỏ hình hài, được tìm thấy trong nhiều tài liệu vặt vãnh của chúng ta, nhưng ngay cả những nét khái quát này cũng nên được xem xét với nhiều hoài nghi. Tất cả những gì có thể được thừa nhận theo Luật Nhân Quả là tinh thầnvật chất được kết hợp với nhau, và các thế giới được tạo thành. Được chi phối bởi cùng định luật, các hình hài đã được tạo ra và trở thành các biểu hiện vật chất của lực thôi thúc của sự sống. Chúng bị cuốn vào và ra khỏi sự biểu lộ theo một nhịp đập có chu kỳ nhịp nhàng, được khởi đầu trong các thái dương hệ còn sớm hơn nữa, sớm hơn so với thái dương hệ ngay trước thái dương hệ của chúng ta. Các nhóm hình hài đã xuất hiện và biến mất, và bị chi phối gần như hoàn toàn bởi sự cố kết và rung động tập thể của chúng. Vì vậy, sự sống đã tiến triển qua các giới tinh hoa chất (elemental kingdom) hay là các giới tiến hóa giáng hạ (involutionary), qua ba giới thấp trong thiên nhiên và lên đến giới nhân loại.

Large generalizations are indeed safer than the detailed and oft erroneous information anent the rules governing the taking and relinquishing of form, found in much of our puerile literature, but e’en these generalizations should be regarded with much distrust. All that can be posited is that, under the Law of Cause and Effect, spirit and matter coalesced and the worlds were made. Governed by the same law, forms were created and became material expressions of the life urge. They were swept in and out of manifestation according to a rhythmic cyclic beat, initiated in still earlier solar systems, than the one immediately preceding ours. Groups of forms appeared and disappeared, and were governed [466] almost entirely by their group coherence and vibration. So the life progressed through the elemental or involutionary kingdoms, through the three lower kingdoms in nature and on into the human kingdom.

Trong các giai đoạn của nhân loại hạ đẳng và trong giai đoạn người thú hoạt động tập thể tương tự ngự trị, chỉ có điều (như trong các giới tiến hóa giáng hạ) là các nhóm này ngày càng trở nên nhỏ hơn khi các đơn vị cá nhân – từng cá thể một – đạt đến trạng thái của các cá nhânngã thức thực sự và bắt đầu hoạt động như linh hồn. Bấy giờ, họ không chỉ trở thành những chủ thể sáng tạo, với khả năng tự lập, với năng lực tư duy sáng suốt và hình dung chính xác, mà còn chứng tỏ rằng họ là những sở hữu chủ của nghệ thuật sáng tạo, hoặc năng lực tưởng tượng đầy sáng tạo. Họ trải qua hết kiếp sống này đến kiếp sống khác có tính cách độc lập, trong đó phàm ngã được phát triển và được sử dụng; sau đó họ bắt đầu tìm thấy nhóm nội tại của họ, nhóm này cuối cùng sẽ thay thế các nhóm hữu hình bên ngoài trong tâm thức của họ. Do đó, một lần nữa họ lại đạt đến sự tồn tại tập thể, chỉ là lần này trong sự hiểu biết và kiểm soát hoàn toàn.

In the lower human stages and in the stage of animal man, the same group activity reigns, only (as in the involutionary kingdoms) becoming smaller and smaller groups as the individual units achieve—one by one—the status of truly selfconscious individuals, and begin to work as souls. Then they not only become creators, with the power of standing alone, with the faculty of clear thinking and accurate visualization, but demonstrate also that they are the possessors of the creative art or faculty of creative imagination. They pass through life after life of self-sufficiency in which the personality is developed and used; then they begin to find their subjective group which will eventually take the place of the outer material groups in their consciousness. Thus they regain again group existence, only this time in full awareness and control.

Trong nhóm mà họ nhận thấy mình có liên kết về mặt nội tại, sẽ có những người đã làm việc với họ trong giai đoạn tập thể trước kia, vì thế cho nên họ hoạt động trong sự kết hợp chặt chẽ với những người đã gần gũi nhất với họ và đã được liên kết với họ trong chu kỳ sống vĩ đại. 

In the group with which they find themselves subjectively affiliated, will be found those who have worked with them in the earlier mass stage, so that they work in close association with those who have been nearest to them and who have been linked with them in the great life cycle.

Có một vài tên gọi dành cho các giai đoạn này trong các văn khố huyền linh học vốn có tính gợi ý và soi sáng; tất nhiên là chúng có tính biểu tượng. Có thể là lý thú nếu Tôi đưa ra một số trong những phát biểu bí ẩn cổ xưa, nó truyền đạt ba mục thông tin, đó là, tên của giai đoạn, màu sắc huyền bí của nó, và biểu tượng của nó. Tuy nhiên, Tôi muốn lưu ý rằng: các mẫu thông tin hấp dẫn mà đôi khi Tôi truyền đạt và dường như một số đạo sinh xem chúng vô cùng quan trọng lại ít quan trọng hơn nhiều so với huấn lệnh phải sống cho tử tế, nói những lời dịu dàng và minh-triết, và thực hành tính quên mình. Các dữ liệu huyền bí được đọc và được chú ý, các huấn thị quen thuộc lại bị bỏ qua và bị lờ đi. Chúng tôi, khi làm việc với những người tầm đạo, thường mỉm cười trước sự dại dột và sự thiếu phán đoán của những người mà chúng tôi giảng dạy thể hiện. Hãy nói với một đạo sinh: Hãy thực hành một cách kiên định định luật về sự tử tế đầy yêu thương, và y sẽ nói rằng thực ra thì y sẽ cố gắng để làm, nhưng bên trong y, chính sự quen thuộc của huấn lệnh trở thành quá nhàm chán, và may mắn lắm thì được coi là một sự nhàm chán cần thiết. Hãy nói với đạo sinh: Tôi sẽ cung cấp cho bạn một số câu chú ngữ huyền bí hoặc một số đề mục thông tin liên quan đến Các Đấng Cao Cả, thì với sự hăng hái, sự phấn khích, với vẻ tự mãn, và với một sự hiếu kỳ đầy vui thích, y chuẩn bị cho sự mặc khải quan trọng.

Tuy nhiên, huấn lệnh trước là huấn thị truyền đạt thông tin huyền bí, chỉ ra một định luật mà nếu được tuân theo đúng đắn sẽ dẫn đến sự giải thoát và sự tự do. Sự tiết lộ sau liên quan đến các hiện tượng, và sự hiểu biết về nó không dẫn người hành hương mệt mỏi đến những cánh cửa của thiên đường. Một số bạn cần được nhắc nhở điều này.

There are certain names given to these stages in the occult archives which are suggestive and illuminative; they are of course symbolic. It might be of interest if I gave some of these ancient cryptic utterances which convey three items of information, namely, the name of the stage, its esoteric color, and its symbol. I would like to point out, however, that these intriguing pieces of information which I at times convey and which some of the students seem to regard as of vital importance are of [467] far less importance than the injunction to live kindly, speak words of gentleness and of wisdom, and practice self-forgetfulness. The occult data is read and noted, the familiar instructions are skipped and overlooked. We, who work with aspirants, smile oft at the foolishness and lack of judgment evinced by those we teach. Say to a student: Practice with steadfastness the law of loving-kindness, and he will say that indeed he will attempt to do, but within himself the very familiarity of the injunction palls and is deemed, at best, a needed platitude. Say to the student: I will give you some occult phrases or some items of information anent the Great Ones, and with keenness, with excitement, and with smug self-satisfaction and with a pleased curiosity, he prepares for the important revelation. Yet the earlier injunction is the conveyer of occult information and indictates a law which—if rightly followed— leads to release and liberation. The latter concerns phenomena and the knowledge of it leads not the weary pilgrim to the gates of heaven. Some of you need this reminder.

 


Chia sẻ:

Trả lời