Chương 5: Nhân Quả (Sách Karmic Laws-MFVN Dịch)

Phật Học: Các Kinh Và Giới Luật

CHAPTER 5

Chết Hay Chôn Sống –  Dead or Buried Alive?

Here in the West, we know practically nothing about death. Until very recently, we did not even know what constituted the difference between a live body and a dead body. For years and years we have expected that when a person died, it was sufficient to be certified dead by the attending physician. The doctor usually just pulled the eyelids open, noting no reaction to light … felt for the heartbeat, which seemingly had stopped forever … saw that there were no brain radiations being given off … tested for any signs of breathing … then: ‘off to the mortuary’!

Ở đây tại Phương Tây, thực tế chúng ta chẳng biết gì về cái chết. Cho đến rất gần đây, chúng ta thậm chí còn không biết cái gì tạo ra sự khác biệt giữa một thể sống và một thể chết. Trong rất nhiều năm, chúng ta cho rằng khi một người chết đi, chỉ cần chứng nhận một người đã chết thông qua các xác nhận mang tính vật lý là đủ. Bác sỹ thường kéo mi mắt mở ra, ghi nhận sự không phản ứng với ánh sáng…cảm nhận nhịp tim dường như đã dừng lại vĩnh viễn…thấy rằng không còn tín hiệu nào của não…kiểm tra tất cả các dấu hiệu hơi thở… và sau đó “chuyển sang việc cử hành tang lễ”

The Ancient Wisdom has warned for many years that this superficial examination of a body lying inert and to all outward appearance devoid of life systems, is not enough to consign it to a mortuary … that in many instances, men may lie in a death coma and may not be able, due to the breaking of the life thread, to register activity in the areas of the lungs, heart, etc., wherein it is anchored. However, the consciousness thread may still be intact in its anchoring in the third ventricle of the brain, and as long as it retains its hold on the physical vehicle there is a possiblity that the Soul may reattach its life thread to the heart and resume its expression in that earth form for a while. True death does not occur until both these threads have been withdrawn from the body.

Minh Triết Cổ Xưa đã cảnh báo trong rất nhiều năm rằng việc kiểm tra một cách hời hợt một thể đang nằm trơ ra đó và với tất cả các biểu hiện bề ngoài không còn dấu hiệu của sự sống là chưa đủ để giao phó thể đó cho nhà tang lễ…rằng trong rất nhiều trường hợp, con ngườithể nằm trong trạng thái chết và có thể không thể ghi nhận một số hoạt động trong các khu vực như phổi, tim.. do bị đứt sợi chỉ sống (sinh mệnh tuyến) ở chỗ mà ở đó nó được gắn vào. Tuy nhiên, sợi chỉ ý thức (thức tuyến) có thể vẫn hoạt động ở điểm nối kết trong não thất thứ ba ở bộ não, và miễn là nó vẫn còn bám vào cơ thể vật lý thì vẫn còn có khả năng linh hồn đó kết nối lại sợi chỉ sự sống đó với trái tim và khôi phục lại sự biểu hiện ở hình thức sống trong một thời gian. Cái chết thật sự sẽ không xảy ra cho đến khi cả hai sợi chỉ này đã bị rút khỏi thể.

Hôn mê, nhưng chưa chết! — In a Coma, but Not Dead!  

In many of these instances, the person may not be able to bat an eyelid or to show life movement of any kind in the physical body – all the while being fully conscious and aware of everything that is being said or done at the time. Though his heart gives no beat, though his pupils refuse to dilate to light, though his brain gives out no waves which can be registered, though he breathes not . . . that man may be still alive—and CONSCIOUS!

Trong nhiều trường hợp như thế, một người có thể không thể mở mi hoặc cho thấy bất kỳ một sự chuyển động nào trong cơ thể vật lý – nhưng suốt lúc này vẫn hoàn toàn ý thức và nhận biết mọi thứ đang được nói hay làm tại thời điểm đó. Mặc dầu trái tim y có thể không đập, con mắt không phản xạ với ánh sáng, não bộ không phát ra một sóng não nào có thể ghi nhận được, hay không còn hơi thở… thì người đó có thể vẫn còn sống – và Ý THỨC!

The author warned about this in 1960 over an American radio show—relating an incident during the Arab-Israeli war, when four young soldiers were found on the battlefield exhibiting a total lack of the four criteria of livingness outlined above. These young men were placed in some surplus heart lung machines as an experiment and their blood was kept in normal circulation. After a period of two weeks, the hearts of all four young men began to beat on their own, the brains became alert, and they recovered sufficiently to be removed from the machines and take up regular convalescence.

Tác giả đã cảnh báo về điều này trong năm 1960 trên một buổi phát thanh ở Mỹ – liên quan đến sự kiện trong chiến tranh giữa Ả rập – Isreal, khi bốn người lính trẻ được tìm thấy trên chiến trận không còn có một trong bốn dấu hiệu nào của sự sống như liệt kê ở trên. Những người lính trẻ này được đặt các máy trợ tim phổi bổ sung như một thí nghiệm và máu của họ vẫn được giữ lưu thông bình thường. Sau khoảng thời gian là 2 tuần, trái tim của tất cả bốn người lính này bắt đầu tự đập, não bắt đầu có tín hiệu, và họ hồi phục đủ để có thể bỏ các thiết bị ra và tiến hành các biện pháp hồi sức thông thường

In 1962, a funeral procession won wide coverage in the French press. As the coffin was being carried to the grave site, scraping noises were heard inside, whereupon the coffin was opened. The body was discovered to be still warm but by this time fully deceased. There was such an uproar following this disclosure,that the medical profession was asked to make a statement. The spokesman for that august body of men stated that at least one person in 500 was buried alive in France, under somewhat similar circumstances.

Vào năm 1962, một buổi tang lễ đã thu hút sự chú ý của báo chí khắp nước Pháp. Khi quan tài đang được đưa vào vị trí đặt mộ, có tiếng cạo ở bên trong, ở đó nắp quan tài mở ra. thể được thấy là vẫn còn ấm nhưng tại thời điểm đó đã chết hoàn toàn. Đã có cuộc tranh luận sôi nổi sau vụ việc này buộc giới chuyên gia y tế phải phát biểu. Người phát ngôn của tổ chức đáng kính đó đã nói rằng ở Pháp có ít nhất 1 trong số 500 người đã được chôn khi vẫn còn sống, trong những hoàn cảnh phần nào tương tự như thế.

In several thousands of years, man has hardly progressed in his concepts of death. Primitive man may have described an eclipse of the sun in terms of some great beast having swallowed up the flaming orb from the skies, and when the eclipse was over, he might have said that that great beast had finally disgorged the sun back into the heavens.

Trong vài ngàn năm qua, con người đã phát triển khái niệm về cái chết một cách hết sức chậm chạp. Người nguyên thủythể mô tả hiện tượng nhật thực như là một con quái vật khổng lồ đã ăn mất quả cầu phát sáng từ bầu trời, và khi nhật thực kết thúc, người ta nói rằng con quái vật đó cuối cùng đã nhả lại mặt trời lại cho bầu trời.

This may seem silly to us today, but modern man is not much better in his knowledge about the eclipse of man from earthly life on this planet—in what we call death.

Điều này dường như có vẻ ngu ngốc đối với chúng ta ngày nay, nhưng con người hiện đại cũng chẳng khá hơn mấy trong kiến thức về sự mất đi của con người trên cuộc sống ở trái đất này – cái mà chúng ta gọi là cái chết

Man undergoes an eclipse from form life during death. There is a temporary obscuration of what we call the physical body, and once more—in a later incarnation—man reappears, unaffected by that previous death except as the final experience in the entire life cycle.

Con người trải qua chu kỳ che khuất khỏi đời sống hình thể trong quá trình chết. Có một sự mờ đi tạm thời của cái mà chúng ta gọi là cơ thể vật lý, và một lần nữa— trong lần tái sinh sau này—con người xuất hiện trở lại, không bị ảnh hưởng bởi cái chết trước đó ngoại trừ như là kinh nghiệm cuối cùng trong toàn bộ chu kỳ sống.

Doctors in the United Kingdom, Canada and the United States especially are becoming concerned with the criteria which determines the true death of a person because they do not wish to take organs from a living person to transplant into another. But how can it be possible to be absolutely certain that the person is beyond recall to physical life?

Các bác sỹ ở Anh, Canada, và Mỹ đặc biệt đang trở nên quan tâm với tiêu chí để xác định cái chết thực sự của một người vì họ không muốn lấy các cơ quan từ người đang sống để cấy ghép vào người khác. Nhưng làm cách nào để có thể hoàn toàn chắc chắn rằng người đó không còn có thể khôi phục lại sự sống vật lý nữa?

During ‘death’ states, many people have reported having out-of-body experiences, and these utterances from normal and sane people give us pause to think. There is another group of people having out-of-body experiences which is worth mentioning. It is those rare individuals who suffer clinical death. During a heart attack or whilst undergoing surgery, someone occasionally ‘dies’. By this we mean that the heart stops and to all intents and purposes, the person is dead. If or when he is successfully resuscitated, he frequently reports an out-of-body experience which is astral projection pure and simple whilst the physical body lies ‘dead’ on the operating table.

Trong các trạng tháichết”, rất nhiều người đã thuật lại các trải nghiệm bên ngoài thể, và các phát biểu từ những người bình thường này cho chúng ta một khoảng dừng lại để suy nghĩ. Có một nhóm người khác cũng có các trải nghiệm ngoài thể cũng đáng để nhắc đến. Đó là những cá nhân trải qua cái chết lâm sàng. Trong khi bị nhồi máu cơ tim hoặc trong lúc trải qua một cơn phẫu thuật, một số người đôi khi “chết”. Khi dùng từ chết ở đây, chúng ta muốn nói là trái tim đã ngừng đập và với mọi mục đích, ý định, con người này đã chết. Nếu hoặc khi  y được làm tỉnh lại thành công, y thường kể lại trải nghiệm ngoài thểtrạng thái phóng xuất thể cảm xúc (“xuất vía”) thuần tuý và đơn giản trong khi cơ thể vật lý đang nằm “chết” trên bàn phẫu thuật

Leslie Sharpe, a Toronto businessman had just this experience. Late one spring afternoon in 1970, his heart stopped beating and for three minutes and eleven seconds, he was ‘dead’. But he survived and recalled, in vivid detail, his sensations during clinical death. I quote now from the report by the Toronto Daily Star columnist Sidney Katz:

Leslie Sharpe, một thương nhân ở Toronto đã có trải nghiệm như thế. Vào một chiều muộn mùa xuân năm 1970, trái tim ông ngừng đập trong vòng 3 phút và 11 giây, ông ấy đã “chết”. Tuy nhiên ông ấy vẫn sống sót và thuật lại chi tiết các cảm nhận trong quá trình chết lâm sàng. Tôi xin trích lại bài báo của Sidney Katz trên tờ Ngôi sao Hàng Ngày Toronto:

I saw myself leave my body, coming out through my head and shoulders. The body was somewhat transparent, although not exactly in vapour form. Watching, I thought, “So this is what happens when you die.’’

‘Tôi thấy tôi rời khỏi thể tôi, đi ra thông qua đầu và vai. thể dường như trong suốt, mặc dù chính xác không phải là thể hơi nước. Nhìn thấy thế, tôi nghĩ, à đây sẽ là cái sẽ xảy ra khi bạn chết

Upon recovering consciousness, the first thing he told the doctor at his bedside was: ‘If I go out again, don’t bring me back – it’s so beautiful out there. I saw myself leave my body, coming out through my head and shoulders. The body was somewhat transparent, although not exactly in vapour form. Watching, I thought, “So this is what happens when you die.’’ ‘

Khi hồi phục lại ý thức, điều đầu tiên ông kể với bác sỹ ở bên cạnh là: ‘Nếu tôi đi ra một lần nữa, đừng mang tôi trở lại – ở đó rất đẹp. Tôi thấy tôi rời khỏi thể, đi qua đầu và vai. thể dường như trong suốt, mặc dù chính xác không phải là thể hơi nước. Nhìn thấy thế, tôi nghĩ, à đây sẽ là cái sẽ xảy ra khi bạn chết

The scene suddenly shifted and Sharpe now found himself sitting on a small object, tilted at a 45° angle, travelling through a blue-grey sky at a great speed … The next sensation was of a ‘delightful floating’ in a bright yellow light. Sharpe recalled:

Khung cảnh bỗng nhiên thay đổi và Sharpe giờ đây thấy ông ta đang ngồi trên một vật nhỏ nghiêng một góc 45 độ, bay qua vùng trời xám với một tốc độ lớn… Cảm nhận tiếp theo là ‘trôi một cách sung sướng’ trong luồng ánh sáng màu vàng sáng. Sharpe nhớ lại:

‘I have a scar on my right leg, the result of an old injury. Although, at the time, I was not conscious of having any lower limbs, I felt the scar being torn away and I thought, “They have always said that your body is made whole out here. I wonder if my scars are gone?”

‘Tôi có một vết sẹo ở chân phải, hậu quả của một vết thương cũ. Mặc dù lúc đó, tôi không ý thức có bất kỳ chân tay nào phía dưới, tôi vẫn cảm thấy vết sẹo đang biến mất và tôi nghĩ “Họ luôn nói rằng thể bạn được làm cho hoàn hảo ở đây. Tôi tự hỏi liệu các vết sẹo của tôi đã biến mất?”

Man on this earth has conquered many fields. He has climbed the highest mountains on this planet … plunged to the oceans’ depths … journeyed into the regions of the skies … even walked on the moon. All of these fields of endeavour have been investigated by man with great success, but there is one vast area of man’s experience which he knows little or nothing about. This is the hidden factors behind disease and death.

Con người trên trái đất đã chinh phục và chiến thắng rất nhiều lĩnh vực. Con người đã trèo lên các ngọn núi cao nhất trên hành tinh này…lặn vào các độ sâu của đại dương…du hành vào các vùng trời…. thậm chí đi trên mặt trăng. Tất cả những thành tựu ở những lĩnh vực này đã được nghiên cứu bởi con người với thành công lớn, nhưng vẫn còn một khoảng rộng lớn trong trải nghiệm của con người mà họ vẫn còn biết rất ít hoặc chưa biết. Đó là những yếu tố đang đằng sau bệnh tật và cái chết

Instead of having a wholesome, joyous and happy attitude to this transition in consciousness which we call death, there is expressed everywhere on this planet a great fear and horror of this most natural of events.

Thay vì có một thái độ lành mạnh, hạnh phúc và vui vẻ với sự chuyển tiếp trong tâm thức mà chúng ta gọi là cái chết này, ở mọi nơi trên hành tinh này có một nỗi khiếp sợ lớn đối với sự kiện tự nhiên nhất này.

Still to this day, black is worn and it was not so long ago that there were plumed horses dragging the funeral bier to the grave, with all the paraphernalia which each civilization has deemed it proper to display in the drama of departure from the physical plane. At least this is so in the Western world. The oriental has a different view on life after death, and it is because of this that such places as Bangaladesh and China and India can withstand such terrible cataclysms … can bear them and resolve them, emerging undaunted from the holocausts to rebuild anew with great courage and perseverance in the face of overwhelming odds.

Cho đến tận ngày hôm nay, màu đen vẫn được mặc trong đám tang, và cũng mới đây còn có những con ngựa kéo quan tài đến nghĩa địa với tất cả đồ cúng tế đám ma mà người ta coi là cách đúng đắn để thực hiện trong lễ tiễn đưa ra khỏi thế giới vật chất này. Ít nhất thì việc này diễn ra ở thế giới Phương Tây. Người Phương Đông có cái nhìn khác về sự sống sau chết, và vì thế ở những nước như Bangladesh, Trung Quốc và Ấn Độ người ta có thể chịu đựng được những tai hoạ địa chất khủng khiếp… và họ có thể chịu đựng, xử lý nó, hồi sinh ngoan cường từ những thảm họa này để tái thiết lại với sự nỗ lực và bền bỉ to lớn trong bối cảnh những thiên tai tràn ngập

People in North America still talk about the great San Francisco earthquake at the beginning of the 19th century as if it were nearly the end of the world. There have been thousands of geophysical episodes of this magnitude in the Far Eastern countries even in the last few centuries alone, and their ability to survive has stemmed in large part from the attitude the people have towards death.

Người ở Bắc Mỹ vẫn còn nói về trận động đất lớn ở San Francisco ở đầu thế kỷ 19 gần như là ngày tận thế của thế giới. Có đến hàng ngàn cơn chấn động địa vật lý ở mức độ này ở các nước Viễn Đông thậm chí chỉ riêng trong một vài thế kỷ gần đây, và khả năng để sống sót của họ hình thành phần lớn từ thái độ của con người đối với cái chết.

The Church and the Doctrine of Reincarnation

Nhà thờ và Giáo lý về Sự Tái Sinh

Reincarnation was once accepted by the Christian Church and was part of the early churches’ teachings. About three or four hundred years after the life of Christ, the church rejected ‘reincarnation’. Perhaps it was because people became lax in their spiritual growth, thinking they could enjoy the ‘good things in life’ and put off all the effort ‘required’ for spiritual evolution. For whatever reason, it was stricken from the Church doctrines and ignored down through the centuries.

Sự tái sinh đã từng được Nhà thờ Thiên Chúa Giáo chấp nhận và là một phần trong lời dạy ban đầu của các nhà thờ. Khoảng 3 hoặc 4 trăm năm sau khi đức Christ xuất hiện, nhà thờ bác bỏ “sự tái sinh”. Có lẽ là bởi vì con người trở nên xao nhãng hơn sự phát triển tâm linh, nghĩ rằng họ có thể tận hưởng “những thứ tốt đẹp trong cuộc sống” và từ bỏ tất cả những nỗ lực ‘cần thiết’ cho sự tiến hóa tâm linh. Dù với bất kỳ lý do nào, nó bị loại bỏ khỏi giáo lí của Nhà Thờ và quên lãng trong nhiều thế kỷ

For most people concerned with their spiritual evolution, a recognition of the Laws of Karma and Reincarnation merely spurs them on to greater and greater efforts. When work is meritorious, when it is service to mankind, when it is evolutionary, then the disciple or initiate knows that he can come back in another life and get right back on the same job.

Với những người quan tâm đến sự phát triển tâm linh, việc chấp nhận Luật Nhân Quả và Tái Sinh sẽ thúc đẩy họ tiến tới những nỗ lực ngày càng lớn hơn nữa. Khi công việc đáng khen thưởng, khi nó để phụng sự cho nhân loại, khi mà nó là sự tiến hóa, thì người đệ tử hoặc người chí nguyện biết rằng y có thể quay lại trong một kiếp sống khác và quay trở lại đúng cái công việc đó.

Life in Terms of Justice and Love 

Cuộc Sống Trên Khía Cạnh Công Lý Và Tình Yêu 

The Laws of Karma and Reincarnation help us to see all life on this planet in terms of justice and love. If a child of three or four dies in her mother’s arms, screaming with the pain of cancer of the bowel, God is not to be blamed: this can be a karmic justice working out for that Soul in a strange way. That Soul chose just that life in order to come back in a later incarnation without the necessity of undergoing such heavy karmic retribution – with freedom to experience a more spiritually evolved life, perhaps to serve humanity in a unique and exalted manner.

Luật Nhân quả và Tái Sinh giúp chúng ta nhìn thấy tất cả sự sống trên trái đất này theo hướng công bằng và yêu thương. Nếu một đứa trẻ lên ba hoặc bốn chết đi trong vòng tay của mẹ nó, đau đớn vì căn bệnh ung thư ruột, không phải trách cứ Chúa: đó có thể là một nghiệp quả công bằng đang diễn ra cho Linh Hồn đó theo một cách lạ lùng. Linh hồn đó đã lựa chọn kiếp sống đó nhằm mục đích ở lần tái sinh sau quay trở lại mà không cần thiết phải trải qua sự trả giá cho những nghiệp quả nặng nề – với sự tự do để trải nghiệm một cuộc sống tâm linh tiến bộ hơn, có lẽ là để phục vụ nhân loại theo một cách đặc biệt và cao cả.


Chia sẻ:

Trả lời