2. ĐỊNH LUẬT HOÀN NGUYÊN CỦA CHÂN THẦN
(Trích LVLCK, 1046 – 1054)
Ở đây có thể nghiên cứu Chân Thần theo quan điểm chu kỳ và quan điểm năng lượng, và tạm thời tách rời thể trí chúng ta ra khỏi khía cạnh biểu lộ mà chúng ta gọi là nhân loại hoặc con người.
Khi xét “Kẻ Hành Hương Thiêng Liêng”, chúng ta có thể nghiên cứu y dưới hình thức biểu lộ của:
a. Ba điểm tập trung năng lượng hay lực.
b. Ba loại lửa, mỗi loại tạo ra một hiệu quả nhất định, và đến phiên nó, mỗi loại lại tạo ra các hiệu quả lên nhau.
Liên quan tới một thái dương hệ, ba loại lửa này trên các cõi vũ trụ được gọi là : (1)
1. Mặt Trời tinh thần trung ương (chủ yếu).
2. Mặt trời (nội tâm, subjective), được gọi là “tâm của mặt trời”.
3. Mặt trời vật chất (biểu lộ ngoại cảnh, objective) và cùng tư tưởng có thể được đưa ra qua biểu lộ Chân Thần.
Ba trung tâm thuộc Chân Thần được phân biệt bằng các loại năng lượng khác nhau:
1. Năng lượng Chân Thần – năng lượng năng động ….. xung lực điện …….. lửa tinh khiết.
2. Năng lượng Chân Ngã – năng lượng từ lực …………… xung lực phát xạ …….. lửa thái dương.
3. Năng lượng phàm ngã – năng lượng cá nhân ……….. xung lực quay …….. lửa do ma sát.
Năng lượng thứ nhất tạo ra ánh sáng, năng lượng thứ hai tạo ra nhiệt, và năng lượng thứ ba tạo ra sự ẩm ướt (moisture) hay là sự cố kết.
Do sự tương tác của ba loại lực, mà ba trạng thái của Chân Thần được tạo ra, một nhịp nhàng được thiết lập đưa đến kết quả trong việc tạo thành:
a/ Một vòng-giới-hạn, hay phạm vi hình trứng, mà kẻ hành hương bị giam nhốt trong đó, và nó chứa trong chính nó ba trung tâm lực chính, tương ứng với a/ Ba trung tâm chính của Thượng Đế khi khía cạnh nội
tâm hay khía cạnh thần lực của cuộc sống được xem xét.
b/ Ba nguyên tử thường tồn nếu khía cạnh thuần túy ngoại cảnh được bàn đến.
Một nhịp đập theo chu kỳ (cyclic pulsation), nguyên là cái nhân của mọi thôi thúc tiến hóa. Các xung lực tiến hóa này có thể xem như gồm có ba đối với một thái dương hệ hoặc đối với một Monad:
Có xung lực dồn mọi nguyên tử đến tự quyết và là cái bí mật của hiện tượng được gọi là biệt ngã hóa (individuali sation, tiến vào giới nhân loại). Phần lớn đó là lực được gọi là Brahma.
Có loại xung lực bắt ép nguyên tử cá biệt hướng về việc xác định nhóm, và là bí ẩn của hiện tượng được gọi là “Điểm Đạo” (“Initiation”) hay là tiến trình vượt qua khỏi giới nhân loại hay là Sự Sống biệt ngã hóa tự quyết đi vào giới cao hơn. Đó là toàn thể thần lực Vishnu, Ngôi Hai, và tạo ra các trạng thái tâm thức cao.
Sau cùng có loại xung lực thúc đẩy các nhóm hành tinh, toàn bộ mọi nguyên tử và hình hài, đưa đến một nhận thức có hiểu biết về bản chất của nhóm chứa đựng tất cả, tức nguyên tử thái dương.
Chịu tác động bởi Hành Tinh Thượng Đế, Monad tạo thành vòng-hạn-định của mình một cách sáng suốt. Nơi đó công việc của Chân Thần ngưng lại theo quan điểm thuần túy của Chân Thần; sự sống có sẵn của chất nguyên tử được cấu tạo như thế tạo ra hiện tượng sau này. Sự sống quay tròn của các nguyên tử và sự tương tác của chúng, bị biến đổi bởi Sự Sống của nhóm hành tinh, hay là Hành Tinh Thượng Đế, được theo đuổi qua các thiên kỷ dài, tạo nên hiện tượng có các giai đoạn tiến hóa giáng hạ khác nhau lên đến điểm mà một số nguyên tử đã tiến hóa đến tâm thức của người-thú. Nhờ giai đoạn không thể hình dung được này (nghĩa là liên quan với trái đất chúng ta) toàn bộ nhiều tỉ các sự sống nguyên tử đã tiếp tục tiến trình của chúng, được cấp năng lượng bằng Sự Sống của Chân Thần, khi Chân Thần rung động nhờ phương tiện tâm Chân Thần trên cõi tâm linh; và chúng đáp ứng với nhịp điệu rộng lớn hơn của Hành Tinh Thượng Đế. Chính điều này đã tạo ra sự cố kết có phân cấp, và đã đưa người-thú đến giai đoạn mà sự kéo lên của chính
Chân Thần bắt đầu được cảm nhận. Đồng thời, Monad ở trên cõi riêng của nó bắt đầu đáp ứng với năng lượng tự sinh (self-engendered energy) của hình thể thấp, hai nhịp điệu được tiếp xúc, hiện tượng biệt ngã hóa xảy ra và kẻ hành hương biểu lộ trong bản chất đích thực của mình.
Kế đó – xét về mặt Monad – sự sống tiến hóa hướng về phía trước bắt đầu. Thực sự nó theo chu kỳ, lặp lại và theo đường xoắn ốc. Trước tiên, tác động hay sự tương tác giữa dạng thức quay của nguyên tử hạ đẳng với ảnh hưởng của Monad, thì lờ đờ, chậm chạp và nặng nề, và hình thức đó làm trì chậm tác động của Chân Thần, và rung động nặng nề của nó có khuynh hướng hóa giải rung động cao. Dần dần, khi các vòng xoắn trải rộng đóng vai trò của chúng, rung động cao siêu làm cho chính nó được cảm nhận, và hoạt động, hay chuyển động trở nên quân bình hơn, nhưng nhẹ nhàng hơn. Thế là các chu kỳ diễn ra cho đến khi nhịp điệu hay rung động cao hơn chiếm ưu thế đến đỗi ảnh hưởng của hình hài bị làm tiêu tán và đưa đến việc loại bỏ cuối cùng của nó. Cùng lúc với việc loại bỏ này, nhịp điệu cao nhất của mọi vật giúp cho chính nó được cảm nhận, đưa đến hoạt động gia tăng trên các cõi cao nhất, và vào đúng lúc, tạo ra việc chối bỏ sự sống của lớp vỏ ngoài (sheath life) của Ego. Như Cổ Luận lần nữa đã viết:
“Các giọt hơi ẩm trở nên nặng hơn. Chúng ập tới như mưa trên cõi thấp. Chúng chìm đắm vào trong đất sét và làm cho nó phát triển. Thế là nước phủ mặt đất và khắp các chu kỳ.
Các mục tiêu của các giọt nước sáng tạo là hai, và mỗi mục tiêu được đạt đến trong các chu kỳ riêng biệt rất lớn; một mục tiêu là chìm và tự mất hút trong đất tối tăm của địa cầu; mục tiêu kia là vươn lên và tự hòa nhập trong không khí trong lành của cõi trời.
Giữa hai giai đoạn rộng lớn, sức nóng chắc chắn góp phần của nó. Nhưng khi sức nóng trở nên mãnh liệt, các lửa bên trong địa cầu và bên dưới các lớp nước thiêu nóng và tuôn chảy, bản chất của nhiều giọt được nhìn thấy trải qua sự thay đổi. Chúng tan biến trong hơi nước. Thế là sức nóng hoàn thành vai trò của nó.
Sau này, lại lửa điện lóe lên, và đổi hơi nước thành những gì sẽ để cho nó đi qua không khí”.
Bây giờ chúng ta sẽ tổng kết vắn tắt các xung lực rung động khác nhau, các xung lực này có ảnh hưởng rõ rệt trên Monad, và chúng phải được ghi nhớ khi chúng ta xem xét bước tiến hóa của Kẻ Hành Hương Thiêng Liêng. Mục đích của Bộ Luận này không phải để quãng diễn mỗi xung lực riêng biệt. Nó chỉ tìm cách khơi ra vấn đề, chừa lại cho các nhà nghiên cứu cá biệt sau này việc mở rộng các ý tưởng được truyền đạt.
1. Ba xung lực này có sẵn trong ba hiện thể xuất hiện theo chu kỳ, theo cách gọi của H.P.B., đó là ba trung tâm năng lượng chính yếu mà Chân Ngã biểu lộ qua đó:
a/ Năng lượng của vòng-hạn-định Chân Thần, xét nó như một đơn vị.
b/ Năng lượng của thể nguyên nhân, trong chu vi Chân Thần.
c/ Năng lượng của xác thân, tổng hợp trên cõi trần của mãnh lực đang tuôn đổ vào biểu lộ qua ba vi tử thường tồn.
2. Hoạt động được thiết lập trong bảy trung tâm lực dĩ thái, kết quả sự hoạt động của bảy nguyên khí:
a/ Trung tâm lực đầu – bảy trung tâm bên trong với ba trung tâm bên ngoài.
b/ Trung tâm lực cổ họng.
c/ Trung tâm lực ở tim – ba trung tâm bên trong và bảy trung tâm bên ngoài.
d/ Bí huyệt đan điền (solar plexus, mạng lưới thần kinh ở bụng) ba bên trong và bốn bên ngoài.
e/ Các cơ quan sinh sản – hai ở bên trong.
f/ Đáy xương sống – cái đơn nhất bên trong.
3. Hoạt động có sẵn của mỗi nguyên tử trong mỗi lớp vỏ (sheath, thể thấp) vốn tạo ra sự nhịp nhàng của thể thấp đó.
4. Hoạt động hợp nhất của mọi thể thấp hoặc hình tướng (form) mà Kẻ Hành Hương Thiêng Liêng sử dụng.
5. Hoạt động linh hoạt hợp nhất được tạo ra bởi sự thống nhất của ba hiện thể, bảy lớp vỏ, các trung tâm lực và vật chất nguyên tử.
6. Hiệu quả được tạo ra bởi tác động của các nhóm được liên kết bằng nghiệp quả với Kẻ Hành Hương. Chúng là:
a/ Rung động do Cung của y, nhóm Chân Thần của y.
b/ Rung động do cung phụ của y, hay là rung động của nhóm Chân Ngã.
c/ Các liên kết do phàm ngã của y, như là năng lượng thuộc gia tộc, chủng tộc, và quốc gia của y. Tất cả các yếu tố này khích động các nguyên tử nhạy cảm trong các thể khác nhau và tạo ra các hiệu quả đặc biệt.
7. Hoạt động hay chuyển động được khai thông và kích hoạt bởi sự sống của bất luận giới nào trong ba giới thấp trong thiên nhiên, – tất cả đều tạo ra các kết quả rõ rệt.
8. Rung động của hành tinh đặc biệt mà dựa vào đó Monad được phép tìm cách biểu hiện và trải nghiệm.
9. Ảnh hưởng được tạo ra trong vật chất của các thể thấp bởi ảnh hưởng hoặc các rung động của các hành tinh khác nhau. Hiểu theo mặt huyền bí, đây là ảnh hưởng của mặt này hoặc mặt kia của các trung tâm thái dương, giống như các thần lực phát ra từ chúng kích động lên các trung tâm hành tinh và bằng cách đó tác động lên các đơn vị Chân Thần có liên quan. Điều này được ẩn giấu trong karma của Hành Tinh Thượng Đế, và khi chiêm tinh học huyền bí chân chính xuất hiện, bấy giờ thêm nhiều điều liên quan đến việc này sẽ được đưa ra. Chiêm tinh học như chúng ta nghiên cứu và giảng dạy, sai lạc nhiều hơn là giúp ích, và những nhà nghiên cứu chiêm tinh học, cho đến nay đang học hỏi chỉ có phần a-b-c của môn học kỳ diệu này, và đang bận tâm đến các mép bờ bên ngoài của bức màn vĩ đại đó vốn dĩ đã được khôn khéo tung ra trên mọi kiến thức hành tinh.
10. Một hình thức năng lượng khác mà bao giờ cũng phải được xem xét là năng lượng của Hành Tinh Thượng Đế, khi Ngài tuôn đổ thần lực của Ngài qua một dãy hành tinh nào đó hoặc bầu hành tinh nào đó dựa vào các nhóm đơn vị nhân loại tiến hóa. Theo cái nhìn của nhân loại, cho đến nay điều này không thể tính được, vì nó dựa vào việc “chuyển sự chú ý” huyền linh của Hành Tinh Thượng Đế vào sự thiền định nơi bất cứ trung tâm nào trong thể hợp nhất của Ngài. Dĩ nhiên, tất cả đều theo luật vũ trụ nhưng ngoài sự nhận thức của con người. Nó liên quan đến nhận thức về mục tiêu cá biệt của hành tinh, vốn không được tiết lộ cho đến các cuộc điểm đạo sau này.
11. Năng lượng cố hữu của chính nguyên tử thái dương cũng có một ảnh hưởng nhịp nhàng trên Monad cá biệt và mặc dù nó chỉ đạt đến Monad xuyên qua các trung tâm Hiện Tồn vĩ đại hơn, tuy vậy nó có hiệu quả của nó trên một và tất cả. Đây là yếu tố khác không được nhận biết đầy đủ.
12. Sau cùng, năng lượng của sự sống vĩ đại hơn (mà thái dương hệ của chúng ta chỉ hợp thành một phần trong đó) phải được xét đến, và các xung lực phát ra từ Vũ Trụ Thượng Đế (cosmic Logos), tức là Đấng Bất Khả Tư Nghị (One About Whom Naught May Be Said), đi đến các sự sống Chân Thần và tạo ra sự phấn khích hoặc trì trệ tùy theo bản chất của thiên ý hồng nguyên (cosmic ideation, tư tưởng thiêng liêng, tư duy vũ trụ). Các sự sống này tất nhiên hoàn toàn ở ngoài phạm vi hiểu biết của con người thông thường và được đề cập đến chỉ vì không có bảng liệt kê nào được đầy đủ mà không có chúng.
13. Cũng được khai sinh trong trí sự tác động của năng lượng vốn phát ra từ bất cứ cung nào trong số “Mười Hai Cung của Hoàng Đạo” mà chiêm tinh học tự có liên kết với chúng. Kiểu thần lực này trước tiên có liên quan đến sự kích hoạt của hành tinh, với các Hành Tinh Thượng Đế, và được ẩn giấu trong karma thuộc chu kỳ của Các Ngài, – một karma mà dĩ nhiên sẽ tình cờ có liên quan đến các Chân Thần và các devas vốn hợp thành các thể và các trung tâm lực của các Ngài.
14. Chúng ta đừng nên không đếm xỉa ba làn sóng năng lượng vĩ đại, mà theo chu kỳ, chúng lan qua toàn bộ thái dương hệ từ:
a/ Bảy ngôi của chòm sao Đại Hùng (Gấu Lớn). Độ mạnh của các rung động này tùy vào sự gần gũi của sự liên quan và độ phù hợp của sự chỉnh hợp giữa bất cứ vị Hành Tinh Thượng Đế đặc biệt nào và Nguyên Mẫu (Prototype) của Ngài. Cái bí ẩn ở đây rất sâu xa; nó có liên quan với giai đoạn trong sự tiến hóa của “các vị thần bất toàn” (the “imperfect gods”) và mục tiêu của các Hành Tinh Thượng Đế (planetary deities).
b/ Bảy Tỉ Muội, hay là chòm sao Pleiades, và theo đó Đấng đặc biệt được đặt tên theo huyền bí học là “hiền thê” (“the wife”) của vị Hành Tinh Thượng Đế mà hành tinh hệ của Ngài sau rốt sẽ nhận được các mầm sự sống từ hành tinh chúng ta, vốn không được xem như một hành tinh thánh thiện, như trước kia đã được nói tới.
c/ Mặt Trời Sirius.
Có các luồng thần lực kích hoạt khác vốn có ảnh hưởng lên Kẻ Hành Hương ở khắp nơi, nhưng bảng liệt kê trên cũng đủ để chứng minh sự phức tạp của vấn đề và cái bao la của hệ thống tiến hóa. Tất cả các phóng phát rung động này đi qua bầu hành tinh theo chu kỳ; chúng đến rồi đi, và tùy theo sự có mặt hoặc sự không có mặt của chúng, và tùy theo giai đoạn tiến hóa của Đấng phát ra thần lực, mà tính chất hiện tượng của mọi sự sống sẽ tùy thuộc vào, tùy vào bản chất của bất cứ giai đoạn đặc biệt nào và tính chất của các Chân Thần đang biểu lộ. Chính sự xuất hiện hoặc sự tan biến của các luồng sóng chứa sinh lực này (về mặt hành tinh, liên hành tinh, thái dương hệ, vũ trụ và liên vũ trụ) đang lôi cuốn vào luân hồi những kẻ hành hương (tức Chân Thần. ND) và mang lại biểu lộ theo chu kỳ của các Đấng Cao Cả như là “Đức Tịnh Quán” (“Silent Watcher”) và “Đấng Đại Hy Sinh”; chính việc này cũng gây ra sự tan rã của một hành tinh hệ và sự tái hiện của nó, và chịu trách nhiệm cho sự chuyển di các mầm sự sống từ hành tinh hệ này sang hành tinh hệ khác, hoặc từ thái dương hệ này đến thái dương hệ khác.
Các Chân Thần được cuốn theo trong trào lưu thần lực vĩ đại này, toàn thể các Chân Thần này được gọi là “lực tiến hóa”, còn sự sống và sự tồn tại của Thực Thể khởi xướng ấn định hạn kỳ cho kỳ gian của Chân Thần. Con người chỉ là nạn nhân của các mãnh lực, chúng buộc chặt lấy y và điều khiển y, giống như nguyên tử, trong cơ thể con người chỉ là người giúp việc phục tùng theo hướng đặt để của con người; tuy nhiên bên trong các giới hạn đó, con người lại là kẻ kiểm soát vận mệnh của mình; bên trong các giới hạn đó, y vận dụng các sức mạnh và năng lượng, y điều khiển các sự sống kém cỏi hơn và kiểm soát các trung tâm năng lượng nhỏ hơn, và
theo thời gian trôi qua, phạm vi kiểm soát của y trở nên ngày càng mở rộng.
Nguyên tử kiểm soát sự sống trung ương của chính nó; con người có thể kiểm soát các tập hợp sự sống vốn tạo thành ba thể của y; điểm đạo đồ và vị adept đang kiểm soát các năng lượng thuộc nhiều loại trong ba cõi thấp, trong khi vị Chohan kiểm soát trên năm cõi tiến hóa. Như vậy kế hoạch được tiến hành cho đến khi Đạo Binh Âm Thanh trở thành Máy Thu các Linh Từ (Sounder of the Words), và các Máy Thu Linh Từ trở thành chính Linh Từ.
Do đó, hiển nhiên là “Định Luật Hoàn Hương của Chân Thần” mà chúng ta vừa xem xét là toàn thể các ảnh hưởng vốn có liên quan trực tiếp với các nguyên tử Chân Thần, tác động đến sự tiến bộ theo chu kỳ của nó và kích hoạt nó hoặc làm trì hoãn hoạt động của nó tùy theo sức mạnh của sự sống khởi đầu. Chỉ sau khi có sự khai mở, thì nguyên tử nhân loại mới đạt đến một giai đoạn trong mức phát triển của nó khi mà các thần lực và các ảnh hưởng bắt đầu được nhận biết. Khi các phương pháp được quán triệt, nhờ đó sự hiệu chỉnh được tạo ra một cách sáng suốt đối với các luồng thần lực từ bên ngoài, sự đề kháng đối với các mãnh lực trì trệ được khai mở một cách sáng suốt và với độ chính xác hợp với khoa học, và con người tự đặt mình theo đúng với các mãnh lực vốn sẽ làm cho y phân vân suốt dọc theo con đường hoàn hương (path of return). Trong tư tưởng này không có một tí nào cái phức tạp quá mức hoặc nguyên nhân cho sự nản chí, vì luôn luôn sức mạnh tiềm tàng của điện năng sẽ hóa giải rung động lờ đờ hơn của Lửa thái dương, và bản thân lửa thái dương, chẳng chóng thì chầy sẽ vô hiệu hóa các ảnh hưởng của “Lửa do ma sát”.
Chia sẻ: